top of page
Banner edge
DIỄN ĐÀN 3.png
DIỄN ĐÀN 2.png
DIỄN ĐÀN 1.png

DIỄN ĐÀN

TÂM TÌNH

NGUYỄN THỊ THÁI HÒA

Giết Dân Lành trong Tết Mậu Thân 1968


KÍNH THƯA ĐỒNG HƯƠNG THỪA THIÊN, HUẾ:


Năm 1968, tôi đang là sinh  viên năm thứ nhất trường Cán Sự Điều Dưỡng Huế. Ngoài những giờ học lý  thuyết chung tại trường, bọn sinh viên chúng tôi được chia thành nhiều  toán. Mỗi toán từ 8 đến 10 người, luân phiên thực tập ở các trại bệnh  trong Bệnh Viện Trung Ương Huế.


Có những trại bệnh sinh  viên thực tập theo giờ hành chánh. Có một vài nơi như phòng cấp cứu,  phòng bệnh nội thương… thì giờ thực tập được chia làm ba ca, sáng, chiều  và đêm… Ca sáng từ 7giờ đến 2 giờ chiều, ca chiều từ 2 giờ đến 9 giờ  tối, và ca đêm từ 9 giờ tối cho đến 7giờ sáng hôm sau. Mỗi một nơi chúng  tôi được thực tập từ 2 đến 3 tuần lễ.


Hai tuần trước tết, toán của tôi được chia phiên thực tập ở phòng cấp cứu. Ngày mồng hai, tôi và hai anh bạn vào ca đêm.


Tết năm nay ba tôi bận đi hành quân xa không về kịp ăn tết.


Thường thì mấy anh em tôi  năm nào cũng vậy, đều phải về nhà ông bà nội từ trước ngày 30 tết, ở  luôn cho hết ngày mồng một, rồi sau đó mới được tự do đi chơi, thăm  viếng bạn bè…


Sau bữa cơm tối mồng một  tết, khoảng 8 giờ 30, Anh hai lấy xe Honda của anh đưa tôi tới bệnh  viện, và nói sáng mai anh sẽ đến đón.


Tối mồng một tết phòng cấp  cứu hơi vắng, chúng tôi, mấy anh sinh viên y khoa và hai người nhân  viên phòng cấp cứu nói đùa với nhau rằng hôm nay tụi mình… hên! Chúng  tôi mang một ít mứt bánh ra vừa ăn vừa nói chuyện, vừa thay nhau thăm  chừng những bệnh nhân mới nhập viện từ đêm qua chưa được chuyển trại.


Nhưng qua nửa đêm thì bắt  đầu nghe có tiếng súng. Tiếng súng lớn, nhỏ, từ xa rồi mỗi lúc một gần.  Chúng tôi thốt giựt mình, băn khoăn  nhìn nhau, hoang mang lo sợ. Bầu  không khí bắt đầu căng thẳng, mấy anh sinh viên y khoa thì nghe ngóng  bàn tán, thắc mắc không biết tiếng súng từ đâu vọng lại…


Lúc đầu chúng tôi tưởng là  thành phố Huế và bệnh viện bị pháo kích, nhưng không ngờ, chừng 3, 4  giờ sáng, bất thần không biết từ ngõ ngách nào có chừng mười mấy người  tràn vào phòng cấp cứu, họ xưng chúng tôi là quân giải phóng, đa số mặc  áo quần đen, súng mang vai, bị rết ngang hông. Họ bắt tất cả chúng tôi  băng bó cho một số người bị thương, đồng thời hò hét chia nhau lục soát,  vơ vét, và lấy đi một số thuốc men, bông băng, dụng cụ y khoa, v.v… Họ  lấy sạch không chừa lại một món nào, kể cả những bánh mứt chúng tôi để  trong phòng trực.


Trong lúc bọn họ đang  tranh nhau lục lọi, thì ầm một cái, một tiếng nổ rớt rất gần, đâu đó  trong bệnh viện, rồi tiếng thứ hai, thứ ba… rớt ngay con đường phía  trước cổng chính bệnh viện, kề phòng cấp cứu… Điện trong phòng cấp cứu  vụt tắt. Thừa lúc bọn chúng nhốn nháo kéo nhau đi, chúng tôi mạnh ai nấy  tìm đường chạy thoát thân.


Ra khỏi phòng cấp cứu tôi  cắm đầu chạy, tôi không định hướng được là mình đang chạy đi đâu. Súng  nổ tứ bề, cứ nằm xuống trốn đạn, rồi đứng lên chạy, cứ thế mà chạy. Chạy  bất kể tả hữu. Cho tới khi tôi đâm sầm vào một người, định thần ngó lại  mới biết đó là cha Trung, tuyên úy của bệnh viện. Cha từ phía một trại  bệnh nào đó tình cờ chạy về phía tôi. Nét mặt cha cũng thất thần, đầy vẻ  lo âu, nhận ra tôi, cha hỏi “con ở mô chạy lại đây?” Tôi nói “từ phòng  cấp cứu”. Vừa nói vừa theo cha, chạy về phía nhà nguyện của bệnh viện và  cũng là chỗ ở thường ngày của cha. Đến đó thì đã có hai bà xơ dòng áo  trắng và vài người nữa không biết từ trại bệnh nào cũng chạy lại đây.  Tôi nhận ra trong số đó có xơ giám thị suốt trong sáu năm tôi nội trú  tại trường trung học Jeane d’ Arc.


Cha Trung quen biết ông  nội và ba mạ tôi, thỉnh thoảng ngài có ghé đến thăm ông nội nhà ở đường  Hàm Nghi, nên ngài biết tôi. Không biết chạy đi đâu nữa tôi ở lại đó với  cha, hai bà xơ, và mấy người nữa.


Bốn năm ngày liền chúng  tôi chui rúc trong nhà nguyện, không dám chạy ra ngoài và cũng không  liên lạc được với một ai từ những trại bệnh khác. Súng nổ tứ bề nên ai ở  đâu thì cứ ở đó.


Sau khi đám người xưng là  “quân giải phóng” ở Cấp Cứu kéo nhau đi, chúng tôi không gặp không thấy  bọn Việt Cộng nào nữa, hay chúng đang lẩn trốn trong những trại bệnh  khác thì tôi không biết.


Tới ngày thứ năm, ruột gan  như lửa đốt, không biết ông bà nội, mạ và mấy anh em tôi trên đường Hàm  Nghi ra sao. Tôi nói với cha Trung, cha ơi con muốn về nhà. Cha bảo,  không được, súng đạn tứ bề, nguy hiểm lắm, cứ ở đây với cha và mấy xơ đi  đã, khi mô có lính mình xuất hiện thì mới đi được. Tôi hỏi, khi mô thì  lính mình mới tới, cha nói không sớm thì muộn họ cũng sẽ phản công thôi,  cha nói như để trấn an tôi và mọi người thôi chứ trên mặt cha thì vẫn  đầy vẻ lo âu…


Không biết nghe tin từ đâu  mà một người trong nhóm nói người ta chạy vô ở trong nhà thờ Phủ Cam  đông lắm. Tôi nghe càng nóng lòng muốn chạy về nhà. Muốn đi phần vì sốt  ruột muốn gặp mạ với mấy anh em tôi, phần vì đói. Đã mấy ngày không có  gì ăn ngoài mấy ổ bánh mì cứng còng của Caritas còn sót lại ở nhà nguyện  chúng tôi chia nhau gặm… hơi!


Tôi quyết định chạy về tìm  gia đình. Tôi liều. Trên người tôi chỉ có bộ đồ đồng phục dính đầy máu,  tôi chạy ra phía sau cổng bệnh viện, tìm đường về nhà. Vừa chạy vừa lo,  ngó tới, ngó lui không một bóng người, nhưng tiếng súng thì nghe rất  gần. Không biết mấy lần vấp, tôi té xuống. Té rồi lồm cồm bò dậy, vài  bước lại vấp té. Tôi lạnh run, hai hàm răng đánh bò cạp, nhìn cảnh tượng  xác người nằm đây đó, máu me đóng vũng, không biết họ bị thương đâu đó ở  bên ngoài chạy vào gục chết ở đây. Quá sợ hãi, tôi định chạy trở lại  nhà nguyện thì bất thần thấy anh Văn hớt ha hớt hải từ cổng sau bệnh  viện chạy vô.


Văn là bạn của anh Hải,  anh kế tôi, hai người cùng học ở Văn Khoa. Nhà Văn ở miệt trên, gần dòng  Thiên An. Mặt mày Văn xanh xao, hai mắt thất thần, trủm lơ, gặp tôi Văn  lắp bắp, nói không ra hơi. Ti ơi thằng Hải bị bắn chết rồi. Hắn bị bắn ở  bên Văn Khoa.


Toàn thân run rẩy, tôi  khuỵu xuống. Văn đỡ tôi đứng lên. Lại có tiếng nổ rất gần. Văn hoảng hốt  kéo tôi chạy lại ngồi xuống bên trong bức tường sát cánh cổng sau bệnh  viện. Hai đứa tôi run rẩy ngồi sát vào nhau.


Lát sau, tiếng được tiếng  mất, anh lắp bắp kể. Văn nói mấy đêm rồi Văn với mấy người anh của tôi  trốn đạn trong nhà thờ Chánh Tòa, (nhà thờ Phủ Cam) nhưng rồi đêm qua có  mấy sinh viên của mình dắt một toán Việt Cộng vô nhà thờ đọc một lô  danh sách, họ lùa người đi đông lắm, không biết họ đưa đi đâu. Văn kể  một hơi mấy tên “sinh viên của mình” nhưng bây giờ tôi không còn nhớ  nổi. Khi đám người bị lùa đi, thân nhân của họ khóc la thảm thiết.


Sau đó Văn, anh Hải cùng  mấy người bạn rủ nhau trốn ra khỏi nhà thờ và mạnh ai nấy tìm đường  trốn. Ra khỏi nhà thờ, không biết trốn chui, trốn nhủi, chạy quanh, chạy  co, làm sao mà Văn với anh Hải lại tới được trường y khoa. Anh Lộc, anh  Kính đi lạc hướng nào không biết. Hai anh hè nhau chui vô phòng thí  nghiệm trốn thì thấy có vài người đã bị bắn chết từ bao giờ mà những  vũng máu đọng dưới họ còn tươi lắm. Văn và anh Hải hoảng hồn chạy trở  ra. Chưa ra khỏi cửa thì gặp Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn thị Đoan  Trinh cùng mấy sinh viên khác nữa Văn không biết tên, chỉ biết họ đồng  bọn với Hoàng Phủ Ngọc Phan. Văn biết mặt Phan là vì Văn có người anh  học y khoa cùng lớp với Phan.


Gặp Văn, Phan nạt nộ, tụi  mi chạy trốn đi mô? Khôn hồn thì chạy qua bên Văn Khoa tập trung ở đó để  đi tải thương! Hải và Văn biết không thể nào thoát khỏi sự kiểm soát  của bọn Hoàng Phủ Ngọc Phan nên vội vàng chạy bộ xuống Văn Khoa, hy vọng  bị bắt đi tải thương chứ không bị giết.


Bọn Trinh, Phan chạy xe  Honda nên họ tới trước, và cũng đã bắn trước một số người khác rồi. Hải  và Văn không biết nên lúc thúc chạy đến. Anh Hải chạy vô trước, nghĩ là  sẽ gặp được một số bạn bè khác, cùng đi tải thương với nhau như lời  Hoàng Phủ Ngọc Phan nói.


Vừa vô tới giảng đường thì anh Hải bị Hoàng Phủ Ngọc Phan bắn gục ngay.


Văn mắc đi cầu, tìm chỗ  phóng uế nên chạy vô sau anh Hải. Mới tới cửa thì nghe tiếng súng, tiếng  hét của anh Hải, Văn quay đầu bỏ chạy. Chưa kịp rượt theo Văn thì bỗng  ầm, một tiếng nổ đâu đó, trong sân trường đại học, khiến Hoàng Phủ Ngọc  Phan và đồng bọn hoảng hốt leo lên xe Honda tháo chạy. Văn thoát chết,  chạy như điên, như khùng, chạy vô bệnh viện, và tình cờ gặp tôi trong  đó…


Nghe anh Hải bị bắn trong  sân đại học Văn Khoa, tôi bỏ ý định về nhà, tôi muốn chạy qua Văn Khoa  tìm anh tôi, hy vọng anh chưa chết, tôi nghĩ sẽ tìm cách đưa anh vô bệnh  viện cấp cứu. Tôi khóc nói với Văn, em tới chỗ anh Hải. Văn can, Ti  đừng đi, tụi nó có thể trở lại.


Tôi mặc kệ Văn ngồi đó,  vừa khóc vừa chạy... Một lát nghe tiếng chân Văn sau lưng, miệng thì  nói, Ti ơi, vô bệnh viện trốn đi, Hải nó chết thiệt rồi, mà chân vẫn  bước theo tôi.


Tôi như người mất hồn, vừa  đi, vừa chạy, vừa khóc. Trời ơi, thật là khủng khiếp, chỉ một đoạn  đường từ cổng sau bệnh viện tới sân trường Văn Khoa mà không biết bao  nhiêu là xác người, áo quần vung vãi khắp nơi.


Chúng tôi chạy mới tới  trường trung học Jeane d’Arc, thì gặp bọn Hoàng Phủ Ngọc Phan lấp ló  trước cổng trường với một nhóm bộ đội Bắc Việt. Người nào mặt mày đằng  đằng sát khí. Gặp lại Phan, Văn run rẩy, Phan chưa kịp nói thì Văn đã  lắp bắp phân trần: em qua bệnh viện kiếm con Ti chớ em không có trốn mô,  và xin xỏ, anh cho em với con Ti đem xác thằng Hải về nhà rồi em trở  lại đi… tải thương!

Phan không trả lời Văn, hắn nhìn tôi ác độc, mi về nhà kêu thằng Lộc, thằng Kính xuống đây mà đem thằng Hải về.


Tôi líu lưỡi, em không biết hai anh em ở mô mà kêu.


Trước đây tôi không hề  biết mặt Hoàng Phủ Ngọc Phan, mà cũng chưa hề nghe nói tới tên người này  vì trước năm 68 tôi còn là học sinh trung học. Có thể các người anh của  tôi thì biết, vì họ là những lớp sinh viên đàn anh, đã từng qua những  khó khăn đối đầu với đám sinh viên theo phe “tranh đấu, lên đường xuống  đường” của những năm trước.


Hoàng Phủ Ngọc Phan to nhỏ  gì với những người đồng bọn rồi quay lại ra lệnh cho tôi với anh Văn  đem xác anh Hải về nhà. Chưa biết nghĩ cách nào để đem xác anh Hải về  thì Văn thấy một chiếc xích lô của ai bị bể bánh xe sau, nằm chơ vơ cạnh  vách tường trường Jeane d’Arc.


Văn gọi tôi theo anh.  Chúng tôi đẩy chiếc xích lô sứt cọng gẫy càng về phía Văn Khoa. Có chừng  10 xác người trong đó. Tôi không dám nhìn lâu. Chúng tôi hè hụi khiêng  Hải bỏ lên xích lô. Xác anh đã cứng, đùm ruột lòi ra ngoài trông rất  khủng khiếp, hai mắt vẫn còn mở trừng, miệng vẫn còn há ra…


Hoàng Phủ Ngọc Phan vừa  đánh anh Văn bằng báng súng vừa chửi. Chuyến ni mi trốn nữa, mi gặp lại  tau là mi chết! Văn run rẩy lắp bắp, dạ lạy anh, em không dám nữa mô.


Rồi chúng tôi hè hụi đẩy chiếc xích lô mang xác người anh xấu số của tôi nhắm hướng cầu Kho Rèn đi lên.


Nhà tôi ở trên đường Hàm  Nghi, qua khỏi cầu một chút. Suốt quãng đường từ đó về đến nhà, có rất  nhiều đám lính bộ đội Bắc Việt đứng tụm năm, tụm ba. Chúng tôi không bị  bắt giữ lại vì có Hoàng Phủ Ngọc Phan chạy đi trước ra dấu cho họ để cho  chúng tôi đi.


Khúc đường ngang trường  Thiên Hựu cũng có rất nhiều xác người nằm rải rác. Nhiều vũng máu cũng  như xác người bị ruồi bu đen. Đã mấy ngày không có gì trong bụng, tôi  vừa đi vừa ói khan. Văn cũng vậy. Chúng tôi ráng sức đẩy chíếc xích lô,  trong lúc Hoàng Phủ Ngọc Phan cùng hai người đàn bà nữa cứ chạy xe đảo  tới, đảo lui hối chúng tôi mau lên. Tôi nghe chúng nó hỏi nhau, bên Lý  Thường Kiệt, Nguyễn Huệ còn ai nữa không?


Có mấy chiếc xe Honda chở gạo, bánh tét, đã tịch thu của nhà ai đó chạy thẳng vô trường Thiên Hựu.

Lúc đó bỗng dưng có mấy  chiếc trực thăng xuất hiện trên trời nhả đạn xuống, Văn nói như reo bên  tai tôi, Ti ơi, máy bay của mình. Mừng chưa kịp no thì trời ơi, từ những  cửa sổ trên lầu của trường Thiên Hựu những họng súng lớn nhỏ nhả đạn,  nhắm hai chiếc trực thăng mà bắn, lúc đó chúng tôi mới biết là Việt Cộng  đang ở trong trường Thiên Hựu quá nhiều. Hoảng hồn tôi, Văn chạy lại  ngồi sụp xuống bên tường rào của trường tránh đạn. Phan và đồng bọn biến  đâu mất. Tụi nó như ma, khi ẩn, khi hiện. Nhưng chỉ được một lát, hai  chiếc trực thăng bay đâu mất. Chúng tôi thất vọng, khi thấy Phan với  đồng bọn lại xuất hiện hối chúng tôi đi.


Lên tới cầu Kho Rèn, thấy  một đám người, đàn ông, đàn bà, con nít bị bắt trói chung với nhau ngồi  trên đầu cầu. Họ ngồi gục đầu xuống hai đầu gối. Tiếng con nít khóc,  tiếng mấy bà mẹ dỗ con, nín đi con ơi. Đi ngang qua họ mà chúng tôi  không dám nhìn. Có tiếng người trong đám gọi tôi Ti ơi, quay lại tôi  nhận ra chị giúp việc của mẹ tôi và vợ của một chú cùng đơn vị với ba  tôi ở tiểu đoàn 12 Pháo Binh Phú Bài. Tôi đoán họ là những người từ trên  Phủ Cam, chung quanh cầu Kho Rèn, Hàm Nghi và những con đường chung  quanh đó chạy xuống tìm đường  trốn lên Phú Lương thì bị bắt giữ.


Tôi định dừng lại hỏi thăm thì Hoàng Phủ Ngọc Phan trờ xe tới nạt nộ “đi, mau ngó chi!”


Trên đoạn đường từ Văn  Khoa ngang qua trường Thiên Hựu, cầu Kho Rèn, lên tới nhà nội chúng tôi  thấy nhiều người bị trói dính chùm vào với nhau đi trước mấy người mặc  đồ đen đi dép râu, mang súng.


Súng nổ tứ bề mà sao không thấy bóng dáng lính mình ở đâu cả. Chỉ thấy lính bộ đội Bắc Việt khắp nơi.


Trên đường Hàm Nghi,  Nguyễn thị Đoan Trinh chạy ngang nhà nào mà y thị gật đầu là y như rằng  trong nhà đó có người bị bắt đem ra, người thì bị bắn tại trước nhà,  người thì bị dắt đi, mấy ông bà cụ trong nhà chạy theo nằm lăn ra đường  khóc la thảm thiết… Bọn lính Bắc thì cứ chửi thề luôn miệng, đéo mẹ câm  mồm, ông bắn bỏ mẹ bây giờ…


Hai chúng tôi cứ nghiến răng, cúi mặt, lầm lủi đẩy chiếc xích lô mang xác Hải đi tới.


Khi gần tới nhà tôi ở số  24 đường Hàm Nghi thì Hoàng Phủ Ngọc Phan và con hồ ly Trinh rà xe lại  gần bảo tôi, “không được đẩy vô nhà mi. Đẩy lên trên tê!”


Đẩy lên trên tê, tôi hiểu  đây là đẩy lên nhà ông bà nội tôi. Cũng trên đường Hàm Nghi nhưng nhà  nội tôi ở trên dốc, hướng đi lên Phủ Cam. Nhà ba mạ tôi thì ở gần cầu  Kho Rèn…


Tôi cũng không hề biết mặt  Nguyễn thị Đoan Trinh trước đó. Trong hoàn cảnh này tôi mới biết mặt y  thị là nhờ anh Văn nói. Tội nghiệp anh Văn, cứ tưỏng khi Hoàng Phủ Ngọc  Phan biểu cùng tôi đẩy xác anh Hải về là được tha chết. Anh Văn và tôi  cũng không ngờ rằng đoạn đường từ Văn Khoa lên tới nhà nội trên đường  Hàm Nghi là đoạn đường sau cùng chúng tôi đi chung với nhau trong cuộc  đời này.


Lên tới nhà nội, chúng tôi  đẩy Hải vô bên trong hàng rào chè tàu, bỏ Hải ngoài sân tôi với Văn  chạy vào nhà,  nhà vắng ngắt, đi từ trước ra sau bếp gọi ông ơi, mệ ơi.  Nghe tiếng ông nội yếu ớt từ buồng vọng ra, ai đó, đứa mô đó? Con đây,  ông nội.


Nghe tiếng tôi, ông tôi  hấp tấp chạy ra, bước chân xiêu xiêu, ông tôi chạy lại ôm tôi, ông khóc,  ông nói, lạy Chúa lạy Mẹ cháu tui con sống. Tôi không khóc được, tôi  run rẩy trong tay ông nội. Ông tưởng tôi sợ nên an ủi, con còn sống mà  về được đây là phúc lắm rồi, ở đây với ông nội, không can chi mô! Nghe  nói mạ mi đưa ba thằng em mi chạy lên Phú Lương rồi, không biết đi tới  mô rồi, có thoát được không? Lạy Chúa, lạy Mẹ phù hộ.


Tôi không nói vì quá mệt,  kéo tay ông nội ra ngoài, thấy Văn ngồi bệt dưới nền nhà, ông hỏi, đứa  mô giống thằng Văn rứa bây? Văn òa khóc, tôi khóc theo, kéo ông nội ra  sân. Nhìn thấy xác Hải ông nội tôi khuỵu xuống, miệng thì kêu trời ơi,  trời ơi, răng mà ra nông nỗi ni…


Chúng tôi đem Hải vào nhà, đặt anh trên divan. Ông nội lấy mền đắp lên xác Hải.


Hai người anh tôi đang  trốn trên trần nhà đòi xuống nhìn mặt Hải. Ông nội không cho. Anh Lộc  giở nắp trần nhà sát góc tường, thò đầu xuống vừa khóc vừa nói, Ti, đẩy  cái ghế đẩu qua cho anh.


Tôi nghe lời ra đằng sau  bếp lấy cái ghế đẩu mang lên để ngay góc phòng cho anh Lộc nhẩy xuống.  Ông nội ngó lên, quơ quơ hai tay, giọng ông lạc đi, đừng xuống, ông nội  lạy con, đừng xuống, ở trên đó đi mà!…


Anh Kính đang ở trên đó,  cũng đang khóc. Lộc chưa kịp nhẩy xuống thì nghe tiếng nói, tiếng chân  người ngoài sân. Anh vội vàng đóng miếng ván lại thì bọn Hoàng Phủ Ngọc  Phan cũng vừa vào đến.

Thấy Phan bước vô, mặt Văn biến sắc, anh lắp bắp nói với ông nội, anh Phan cho tụi con đem xác về đó ông ơi.


Ông nội đứng im không nói.


Hai mắt cú vọ của nó ngó ông nội hỏi, thằng Lộc, thằng Kính ở mô?


Ông nội nói tui không biết.


Phan gằn giọng, ông thiệt không biết tụi hắn ở mô? Tụi hắn năm mô cũng về ăn tết ở đây mà ông không biết răng được?


Ông nội nói, ba ngày tư  ngày tết, ăn xong thì tụi hắn đi chơi, đi thăm bà con họ hàng chứ chẳng  lẽ ở nhà hoài răng? Chừ thì tui biêt tụi hắn ở nhà mô mà chỉ!


Mắt Phan ngó láo liên khắp nơi, chợt thấy cái ghế đẩu ngay góc phòng, nó cười khan một tiếng.

Tôi đứng núp sau lưng ông nội.


Hoàng Phủ Ngọc Phan hung  hăng bước tới, xô ông nội qua một bên, nó nắm lấy tóc tôi kéo tôi ra về  phía hắn. Ngó lên trần nhà la lớn, Lộc, Kính, Hiệp, tụi mày không xuống  tau bắn con Ti!


Nó vừa nói, vừa xoáy mái  tóc dài của tôi trong tay, nó đẩy tới, đẩy lui... Tôi đau điếng, tôi sợ,  tôi run lẩy bẩy, nước mắt ứa ra nhưng không dám la thành tiếng. Ông nội  tôi chấp tay lạy nó như tế sao, tui lạy anh tha cháu tui, con gái con  lứa, hắn biết chi mô.


Thằng Phan càng la lớn, tau biết tụi mi trên đó, có xuống không thì nói, tau bắn con Ti.


Phan xô tôi té xuống, lấy chân đạp lên lưng. Chĩa mũi súng lên đầu tôi hô một, hai, ba…


Lập tức anh Lộc mở nắp trần nhà thò đầu xuống la to, đừng, đừng bắn em tau, tau xuống, để tau xuống…


Ông nội tôi chạy lại giữ  cái ghế cho anh bước xuống, hai chân ông run, ông té sấp, đang lúc Anh  Lộc tìm cách tuột xuống, thò hai chân xuống trước, hai tay còn vịn trần  nhà, khi đôi chân vừa chạm chiếc ghế đẩu thì Hoàng Phủ Ngọc Phan đã nổ  súng, đạn trúng ngay chính giữa cổ, máu phọt ra, Lộc lăn xuống sàn nhà  toàn thân anh dẫy dụa mấy cái rồi nằm im.


Mặc ông nội tôi la hét  thất thanh, Phan chĩa súng bắn lên trần  nhà, nghe tiếng anh Kính lăn  tới đâu, nó bắn tới đó, bắn nát trần nhà, hết đạn nó dành lấy cây súng  của một thằng khác bắn tiếp, cho tới khi anh Kính tôi rớt xuống theo mấy  miếng ván.


Anh Văn ngồi bệt xuống đất, nhắm mắt, bịt tai, run lẩy bẩy, ngồi kề bên cạnh anh người tôi tê cóng, đái ỉa ra cả quần.


Ông nội tôi nhào tới ôm anh Kính, hai mắt trợn trừng, anh đang thều thào những lời sau cùng.

Ông khóc, ông chửi rủa thằng Phan, nó say máu, bắn luôn ông nội tôi.


Ông tôi đổ xuống bên cạnh anh Kính.


Bắn ông tôi xong chúng kéo nhau đi, bắt anh Văn theo.


Còn lại một mình, tôi bò  lại ôm lấy ông nội, tôi khóc không ra tiếng, tôi thở không ra hơi, hai  bàn tay tôi ướt đẫm máu, máu của ông nội tôi, tôi bò sang anh Lộc, bò  sang anh Kính, tôi lay, tôi gọi, tôi gào, không ai nghe tôi hết, anh tôi  không trả lời tôi, hai con mắt, bốn con mắt, sáu con mắt đều mắt mở  trừng, ông nội tôi nằm im, máu trong ngực ông vẫn tuôn ra từng vòi. Tôi  gục đầu xuống xác ông lịm đi.


Không biết bao lâu thì tôi  tỉnh lại, nhưng không ngồi dậy nổi. Cứ nằm ôm lấy xác ông nội. Tóc tôi  bết đầy máu, toàn thân tôi, máu, phân và nước tiểu đẫm ướt. Tôi không  còn sức để ngồi lên.


Không biết tôi nằm bên  cạnh xác ông tôi với ba người anh như vậy là bao lâu, khi tỉnh dậy thì  thấy hai vợ chồng bác Hậu, vài người lối xóm nữa của ông nội đang ở  trong nhà.


Họ dọn dẹp, khiêng bộ ngựa trong nhà bếp ra trước phòng khách, đặt xác ông nội cùng với ba người anh tôi nằm chung với nhau.


Hai bác gái đem tôi vào  phòng tắm, phụ nhau tắm rửa cho tôi như một đứa con nít, bác Hậu lấy áo  quần của bác mặc cho tôi. Tâm trí tôi hoàn toàn tê liệt. Tôi không còn  khóc được, không còn mở miệng nói được câu nào.


Ngày cũng như đêm ngồi rũ  rượi bên cạnh xác của ông tôi, các anh tôi. Tôi không còn sợ chết. Nhưng  sao tụi nó không giết luôn tôi? Trời hỡi, trời ơi!


Nhìn thấy tôi tiều tụy,  mỗi ngày bác Hậu gái khuấy cho tôi vài muỗng bột bích chi ép tôi uống.  Thiệt ra nhà nội cũng chẳng còn chi. Gạo cơm, bánh mứt thì bị tụi nó  khiêng đi hết rồi. Bác Hậu còn dấu được ít gạo, ít than nấu cháo uống  cầm hơi với nhau.


Ngày hôm sau thằng Phan  trở lại. Bác Hậu xin phép được chôn ông tôi và mấy người anh sau vườn  nhà nhưng nó không cho, nói cứ để đó.


Đã hơn bảy ngày, xác đã bắt đầu sình lên và nặng mùi. Mà Phan không trở lại.


Một buổi tối tụi bộ đội  Bắc Việt đến lục lọi kiếm gạo. Bác Hậu xin chúng nó đào huyệt sau nhà để  chôn ông nội và ba người anh tôi. Chúng nó bảo ừ thối quá rồi thì chôn  đi, nhưng chỉ được đào một lỗ huyệt.


Vợ chồng bác Hậu khóc lóc  năn nỉ, mấy anh ơi, người chết rồi biết chi, anh cho tụi tui đào 4  huyệt. Chúng không cho. Chúng nó phụ bác Hậu đào huyệt. Bảo đem cả bốn  người bỏ xuống chung một lỗ. Lấp lẹ đi, thối quá. Bác Hậu với mấy người  trong nhà không ai muốn làm, ngó nhau mà khóc…


Chiều tối hôm đó Văn trở  lại với Phan và mấy thằng bộ đội. Chúng nó bắt Văn phụ với mấy thằng bộ  đội khiêng từng người ra bỏ xuống huyệt.


Hai vợ chồng bác Hậu theo  ra vườn. Tôi kiệt sức nằm vùi một chỗ nhưng tai tôi vẫn nghe rõ những lời đối thoại trong nhà. Tôi không đủ can đảm theo ra vườn chứng kiến  cảnh vùi lấp những người thân yêu của tôi. Nằm trong buồng ông bà nội  nhưng tôi nghe rõ từng tiếng cuốc xẻng đang đào đất. Tâm trí tôi quay  cuồng, ruột gan tôi đòi đoạn. Trời ở đâu, đất ở đâu? Tôi gọi ông tôi,  gọi anh Lộc, anh Kính, anh Hải, không ai nghe tôi hết…


Khi bốn cái xác người được bỏ xuống, miệng lỗ chưa được lấp, thì tôi nghe tiếng súng nổ, tiếng kêu gào của  vợ chồng bác Hậu, nhưng không nghe tiếng của Văn. Tiếng bác Hậu kêu Văn  ơi, Văn ơi giọng bác đòi đoạn, thì tôi biết chuyện gì đã xẩy ra cho Văn.


Toàn thân tôi lẩy bẩy, tôi cảm thấy khó thở, một lần nữa phân và nước đái trong người tôi túa ra.


Tôi nghe tiếng mấy thằng  bộ đội hò hét bảo lấp đất lại. Bác Hậu và những người hàng xóm của nội  tôi đành phải làm theo. Khi tụi bộ đội VC bỏ đi, bác Hậu chạy vào buồng  vò đầu, bức tai, giọng tức tưởi, thằng Văn nằm chung với ba thằng anh mi  rồi con ơi! Trời ơi, là trời ơi, bác Hậu đấm ngực, không biết thằng Văn  đã chết chưa mà hắn bắt tui lấp. Văn ơi là Văn ơi, con tha tội cho bác,  trời ơi người mô mà ác như rứa…


Tôi lặng người, nghe bác Hậu khóc anh Văn.


Sau lần đó không đứa nào  trong bọn chúng trở lại, kể cả tụi bộ đội. Chắc nhà ông tôi chẳng còn  người để mà giết, chẳng còn của cải chi để mà cướp nữa.


Hơn hai mươi ngày, tôi nằm liệt lào trong nhà nội. Bên ngoài súng đạn vẫn tứ bề.


Hai vợ chồng bác Hậu không  nỡ bỏ tôi lại một mình, trong lúc bác nghe ngóng và biết đa số dân Phủ  Cam đã tìm đường chạy thoát được xuống Phú Lương. Bác năn nỉ tôi ráng ăn  uống thêm một chút để có sức mà chạy, không lẽ con nằm đây chờ chết?  Con không muốn tìm mạ con răng?


Hôm sau nữa tôi theo gia  đình bác Hậu tìm đường chạy lên Phú Lương vì nghe nói lính Mỹ, lính mình  đã thấy xuất hiện chung quanh đây rồi. Đi xuống ngã cầu Kho Rèn thì cầu  đã bị sập, bác theo đoàn người đi hướng khác, tôi đi theo như người mất  hồn, họ đi đâu tôi theo đó, tôi không còn nhớ là mình đã đi qua được  những nơi đâu. Có điều tôi lấy làm lạ, trên đường chạy giặc, mỗi khi đạn  pháo bắn khắp nơi mà người ta cứ gồng gánh nhau mà đi, không ai chịu  dừng lại kiếm chỗ tránh đạn, người ta nói với nhau, khi mô mà có mọc chê  hay đạn pháo chi đó thì bọn VC chui vô nhà dân để trốn đạn, chúng nó  không ra đường để chặn bắt dân lại, vì vậy người ta cứ chạy bất kể, dưới  lằn mưa đạn người ta càng chạy đi đông hơn. Ôi những người dân tội  nghiệp của xứ Huế thà chết dưới bom đạn còn hơn để bị lọt vô tay quân  sát nhân ác độc.


Cuối cùng thì tôi cũng về  đến được Phú Lương gặp mạ và ba đứa em trai của tôi. Quá đau khổ, Mạ tôi  bị điên khi hay tin cái chết của ba người anh và ông nội. Ít lâu sau ba  tôi trở về sau một đợt hành quân nào đó của tiểu đoàn 12 Pháo Binh Phú  Bài. Thấy mạ tội như vậy, biết không thể trở lại đường Hàm Nghi ông mướn  nhà ở tạm tại Phú Lương.


Sau khi Huế được giải  thoát. Ba tôi nhờ bà con lối xóm cải táng Văn, ba người anh, và ông nội  tôi. Tang lễ được cử hành tại nhà thờ Phủ Cam do cha Nguyễn Phùng Tuệ  chủ tế. Gia đình anh Văn đồng ý cho anh Văn được nằm lại trong miếng  vườn nhà ông nội tôi cùng với ba người anh của tôi.


Ba tôi được giải ngũ  khoảng giữa năm 69. Mạ tôi vẫn trong cơn điên loạn không thuyên giảm. Ba  tôi quyết định bỏ Huế đem hết gia đình vào Long Khánh sinh sống. Nhà  nội giao lại nhờ hai bác Hậu coi chừng. Nhà ở 24 Hàm Nghi (gần dường rầy  xe lửa) thì bán cho ai đó tôi không rõ.


Đó là những cái chết oan  khiên của những người ruột thịt thân yêu mà tôi phải chứng kiến tận mắt  với muôn ngàn đau đớn. Trong bà con thân tộc nội ngoại hai bên của tôi  có rất nhiều người bị bắt đi ở nhà thờ Phủ Cam, một số bị bắt ở nhà thờ  dòng Chúa Cứu Thế. Số người bị chôn sống, mất tích lên tới 70 người. Tất  cả đều là học sinh, sinh viên, thường dân, nông dân, buôn bán ở chợ An  Cựu.


Sau Tết Mậu Thân, những  người bà con còn lại của tôi quá đau khổ, sợ hãi, họ đã âm thầm bỏ Huế,  tản mác khắp nơi, thay tên đổi họ mà sống…


Sau biến cố tháng 4 đen  75, gia đình tôi lại là những nạn nhân của lũ Việt Gian Cộng Sản ác độc,  vô luân. Ba tôi và những đứa em trai còn lại cũng đã chết sau mười mấy  năm bị đày đọa trong lao tù cộng sản.


Đã 40 năm qua, những vết  thương đó vẫn còn tươi rói trong tôi. Nỗi đau mỗi ngày một đầy. Đó là  những cái chết oan khiên trong muôn ngàn cái oan khiên của người dân  Huế.


Tôi là người con duy nhất  trong gia đình còn sống sót sau tết Mậu Thân cũng như sau những ngày mất  nước. Nay viết lại những cái chết thương tâm của những người Thân Yêu  trong Gia đình tôi với tư cách là một nhân chứng và nạn nhân, để tố cáo  Tội Ác Của Việt Gian Cộng Sản, có như thế, oan hồn của ông nội và anh em  tôi mới có thể siêu thoát.


Tôi sẵn sàng ra làm nhân chứng trước tòa án quốc tế, cũng như xuất hiện trước các phương tiện truyền thông khi cần thiết.


Xin trình tên tuổi ông nội tôi, của ba người anh và một người bạn đã bị sát hại:

Tên ông nội:

- Nguyễn Tín, 70 tuổi.

Ba người anh và một người bạn:

- Nguyễn Xuân Kính, sinh viên y khoa, sinh năm 1942.

- Nguyễn Xuân Lộc, sinh viên luật, sinh năm 1946.

- Nguyễn Thanh Hải, sinh viên Văn Khoa, sinh năm 1949.

- Lê Tuấn Văn, sinh viên Văn Khoa, bạn của anh Hải tôi.


Nguyễn Thị Thái Hòa


bottom of page