top of page
Banner edge
DIỄN ĐÀN 3.png
DIỄN ĐÀN 2.png
DIỄN ĐÀN 1.png

DIỄN ĐÀN

TÂM TÌNH

TRẦN XUÂN THỜI

On  this Veterans Day, let us remember the service of our veterans, and let  us renew our national promise to fulfill our sacred obligations to our  veterans and their families who have sacrificed so much so that we can  live free” (Dan Lipinski)


Nếu gọi  văn hoá là tất cả những gì thể hiện sự hiện hữu của con người trên trái  đất này thì tình huynh đệ chi binh cũng là một đặc nét của nền văn hoá  Việt Nam nói chung và của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà uy dũng nói riêng.

Diễn trình kiến tạo tình huynh đệ chi binh là diễn trình Tri và Mộ, vì  “Vô tri thường hay bất mộ”. Không quen biết thì làm sao có thể trở nên  thân thích được. Thế nên, hễ có dịp gặp anh em để bàn bạc sự đời, chúng  ta thấy tinh thần hoạt hiện. Các sinh hoạt thường niên tạo cho chúng ta  môi trường gặp gỡ, kết chặt thân tình, kết tinh chí hướng. “Hữu bằng tự  viễn phương lai, bất diệc lạc hồ”. Được gặp bạn từ phương xa đến thăm,  quả là một niềm vui vì tình bằng hữu giá đáng muôn chung, người ở thế  dẫu trăm năm là mấy.


Với nghị lực tiềm tàng,  chúng ta đương đầu với cuộc sống mới đầy gian lao và thử thách. Hoàn  cảnh mới đòi hỏi chúng ta phải phấn đấu trường kỳ cho, bản thân, gia  đình và nòi giống.

Nhớ thuở ban đầu nơi xứ lạ quê người, sau biến cố lịch sử, có một không  hai, của đời người, dù không lưu luyến, nhưng ngàn năm chưa dễ đã ai  quên. Có khi “Vui là vui gượng kia mà. Ai tri âm đó mặn mà với ai”. Có  lẽ phần vì chúng ta đã xem nhau như người khách lạ, phần khác vì mải mê  vật lộn với những nhu cầu cấp thiết của cuộc sống hằng ngày nên thái độ  ngoảnh mặt, cúi đầu, mặc ai hỏi, mặc ai không hỏi đến là thái độ thường  tình của kẻ bất đắc chí.

Nếu thời gian là liều thuốc hàn gắn vết thương lòng, thì sau hơn nhiều  năm trời viễn xứ, thời gian đã khơi động tình huynh đệ chi binh và tình  đồng hương muôn thuở tiềm ẩn trong tâm khảm của mỗi người. Dù “Anh với  tôi đôi người xa lạ. Tự phương trời chẳng hề quen nhau. Nhưng lúc nguy  biến, tình siết chặt tình. Đêm tối chung chăn, thành đôi tri kỷ” và mỗi  khi đã trở thành tri kỷ thì:

“Gặp một bữa, mình mừng thầm một bữa
Gặp hai hôm, thành nhị hỉ của tâm hồn”

Diễn trình kết nghĩa là diễn trình tri và mộ. Khi chưa quen biết thì gặp  gỡ, tìm hiểu nhau để thông cảm. Khi quen biết nhau rồi thì không còn  tìm hiểu nhau nữa mà hiểu nhau qua môi giới cảm thông, qua ánh mắt, nụ  cười vì bằng hữu thân tình là người hiểu ta tất cả nhưng vẫn thích ta.

Tình huynh đệ chi binh, tình đồng hương, tri âm hay tri kỷ là cung bậc  tiết tấu cảm thông toàn vẹn nhất của nhân tình. Ngày xa xưa ấy, Bá Nha  và Chung Tử Kỳ là đôi bạn tri âm. Bá Nha có ngón đàn tuyệt diệu, khi cao  thì vời vợi tựa núi Thái sơn, khi trầm thì âm hưởng như tiếng suối mới  sa giữa vời. Chung Tử Kỳ chết, không còn ai hiểu nổi tiếng đàn, Bá Nha  ném đàn không gảy nữa!

“Đàn Bá Nha mấy kẻ biết thưởng âm
Mới nghe qua khóc trộm lại đau thầm
Chung Kỳ chết, ném đàn không gảy nữa”.


Tình huynh đệ chi binh là kho tàng vô giá, là nền tảng và hơi thở của  các tập thể quân nhân, là nguồn an ủi vô biên, ai xa lánh tình huynh đệ  tâm hồn sẽ chết trong giá lạnh!

Khi sống hạnh phúc, trong ấm ngoài êm, ai cũng có thể là bè bạn. Nhưng  khi gặp lúc gian nguy, khốn khó đem cay đắng đến cho đời, thì còn ai lao  mình vào lửa đạn để cứu mình, còn ai thương tiếc mình, còn ai để chia  vui sẻ buồn, tìm phương thoát hiểm, nếu không phải là tri kỷ.

Một Lưu Bình và Dương Lễ, ai nhờ ai nên danh phận?

Một Lê Lai liều mình cứu chúa, chẳng những để đền ơn tri ngộ, giữ nghĩa  quân thần mà còn là biểu tượng hy sinh cao cả của tình bằng hữu. Thế mới  biết lúc gặp hoạn nạn, mới biết ai là bạn thật.

“Xung phong chiếm một đấu cầu.
Niềm vui chung hưởng, chén sầu chung mang”

Dương Khuê chết đi, cụ Nguyễn Khuyến khóc suốt cuộc đời còn lại!


“Bác Dương thôi đã thôi rồi
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta
Chợt nhớ thuở đăng khoa ngày trước
Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau”!


Bây giờ, thư phòng trở nên băng giá, can trường bỗng chịu vết thương đau vì không còn ai để đối ẩm.


“Đã tắt lò hương lạnh phím đàn
Thư phòng sắp sẵn để cô đơn
Trời cao mây nhạt ngàn sao rụng
Một giải vương theo mấy dặm sầu
Sớm biệt ly nhau ‘luôn’ nhớ nhau
Nửa đêm chợt tỉnh bỗng dâng sầu
Trăng mùa thu cũ ai tâm sự
‘Đệ’ đã đi rồi, ‘huynh’ biết đâu”!


Hay


“Rượu ngon không có bạn hiền
Không mua không phải không tiền không mua
Câu thơ nghĩ đắn đo không viết
Viết đưa ai, ai biết mà đưa”!


Đồng cảnh ngộ, Vua Tự Đức khóc Bằng Phi, một thiên giai nhân tri kỷ.


“Ới thị Bằng Phi đã mất rồi
Ới tình, ới nghĩa, ới duyên ôi
Mưa hè, nắng chái, oanh ăn nói
Sớm ngõ, trưa sân, liễu đứng ngồi
Đập cổ kính ra tìm lấy bóng
Xếp tàn y lại để dành hơi
Mối tình muốn dứt càng thêm bận
Lẽo đẽo theo hoài mãi chẵng thôi”


Xem thế thì tri kỷ quý hoá biết dường nào!

Thời gian vô bờ, đời người không bến, trôi dài với nhau. Thời gian càng  chồng chất, nỗi lòng càng thêm tê tái, tràn ngập nỗi cô đơn và niềm đau  xa tri kỷ khi phải lià bỏ quê hương dấn thân trên bước đường vô định.


“Ta nhớ người xa cách núi sông
Người xa xa lắm nhớ ta không?”


và thông cảm với tâm tư của Thôi Hạo:


“Ai người trước đã qua
Ai người sau chưa tới
Ngẫm Trời, Đất mông lung,
Một mình tuôn giọt lệ!”

 
Không cần phải “gọi nằm người thiên cổ dậy” để chứng giám cơn đau vời  vợi ấy, mà chính chúng ta, trong tâm khảm của mỗi người, cảm nghiệm được  niềm bất hạnh của cuộc đời với cuộc chia ly bẽ bàng và oan nghiệt. Bạn  khuyên ta nên uống cạn chén bồ đào vì khi qua bên kia phương trời Tây,  không còn cố nhân nữa!


“Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu.
Tây xuất Dương quan vô cố nhân”.


Đôi khi chúng ta cảm nghiệm được tâm tình kẻ tha thương đâu đâu cũng cô  độc, “L’exilé partout est seul”! Nên chúng ta đồng cảm với tâm tư của  Vương Duy:


“Mưa mai thấm bụi Vị Thành
Liễu bên quán trọ sắc xanh ngời ngời

Khuyên anh hãy cạn chén mời
Dương quan ra khỏi ai người cố tri” 

(Tống Nguyên nhị sứ An Tây)


Trong hoàn cảnh vỡ đàn tan nghé đó, mỗi người mò mẫm đi tìm sinh lộ như lữ hành trong sa mạc đi tìm suối nước.


“Than ôi, môt kiếp phong trần, mấy phen chìm nổi
Trời tình mờ mịt, bể giận mênh mông
Sợi tơ mành theo gió cuốn đi
Cánh hoa rụng, chọn gì đất sạch”.


Có lẽ con Tạo khéo trêu ngươi, bắt người khôn phải gặp gian truân và  cũng có lẽ con Tạo muốn thử thách chúng ta, những chiến binh đã một thời  oanh liệt: “Trong lăng miếu ra tài lương đống, ngoài biên thùy rạch mũi  Can tương”.

Nhưng,


“Có gió cả mới hay cây cứng
Không đường dài, nào biết ngựa hay”.

Trong cái thử thách đó, mình thử nghĩ:
“Ngẫm thay muôn sự tại Trời
Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao”


Đã là chiến binh thì mấy ai có thể rời khỏi kiếp gian nan!

Hơn ba triệu dân, quân, cán, chính tuấn kiệt của VNCH đã hy sinh tánh  mạng trong trận chiến chống CS xâm lăng. Trong đó biết bao chiến sĩ đã  sống hiên ngang và hy sinh cho tổ quốc một cách oanh liệt!


“Sống bên tình, hy sinh bên bạn”.

“Chết vì tổ quốc, chết vinh quang”.


Những người sống sót như chúng ta, để đổi lấy tự do, chúng ta cũng phải chia phần mất mát.


“Trời đâu thiên vị người nào
Chữ tài, chữ mệnh dồi dào cả hai”


Nên không phải vì thế mà chúng ta quy ẩn hay sinh ra chán chường không  phải lẽ. Dù “Hận nước chưa trả xong đầu đã bạc, nhưng gươm mài bóng  nguyệt đã bao ngày”, bởi hy vọng là mạch sống của cuộc đời.

 
“Trời đâu riêng khó cho ta mãi
Vinh nhục dù ai cũng một lần”

 
Đức Khổng Tử khuyên thế nhân khi vui thì hãy vui nhưng đừng kiêu căng,  tự phụ và khi tai họa đến thì nên lo nghĩ mà chớ buồn phiền để mưu sinh  thoát hiểm.


Thế thì suy nghĩ là giềng mối cho mọi sự vì tư tưởng lên khuôn cho hành động.

Chúng ta đang tìm nhau để kết nghĩa huynh đệ thân tình, kết tinh chí hướng hầu giúp đỡ nhau trên bước đường gian truân lưu lạc.


Người đồng môn, đồng  hương, đồng màu cờ sắc áo, phải giúp người đồng hội, đồng thuyền để cùng  nhau thăng tiến. Nếu nguyên tắc này được xem như chỉ tiêu sinh hoạt  trong đời sống hằng ngày, thì sá gì gian lao thử thách.

Chúng ta sẽ san bằng mọi trở ngại để cùng nhau xây đắp nền tảng cho tập  thể đồng hương, Dân, Quân, Cán, Chính đoàn kết và phồn thịnh. Mỗi người ý  thức trách nhiệm của mình, tự nguyện gánh vác việc chung, phát huy khả  năng cá nhân, đóng góp vào sự kiến tạo một tập thể con Hồng, cháu Lạc,  hùng mạnh cho hiện tại và tương lai.

Về tình cảm, dù có lúc cô đơn, nhưng như cụ Phan Sào Nam cũng đã khuyên chúng ta:


“Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ
Thiên hạ thùy nhân bất thức quân”.


Đừng buồn vì trên đường đời chưa gặp được tri kỷ, trong thiên hạ hẳn có người biết đến bạn.

Biết đâu nhiều chiến hữu,  đồng hương, đang trông chờ gặp được huynh, đệ, trong các đại hội thường  niên, nghe những khúc hát ân tình nặng lòng với quê hương hay tiếng quân  hành còn như văng vẳng bên tai. Với lòng tin tưởng không nao núng thì  đường đời không còn khó vì ngăn sông cách núi.

“Như nước Việt ta từ trước, vốn xưng văn hiến đã lâu. Sơn hà cương vực  đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác. Từ Đinh, Lê, Lý, Trần gây nền độc  lập. Cùng Hán Đường, Tống Nguyên, mỗi thời hùng cứ một phương. Dẫu cường  nhược có lúc khác nhau, song hào kiệt thời nào cũng có.

Vậy nên, Lưu Cung sợ uy  mất vía, Triệu Tiết nghe tiếng giựt mình. Cửa Hàm Tử giết ngay Toa Đô,  sông Bạch Đằng bắt sống Ô Mã. Xét xem sử sách đã có minh trưng”.

Những trang sử oai hùng đó còn như văng vẳng bên tai, sống mãi trong tâm  khảm của mỗi người, không những trong khung cảnh quê hương gấm vóc:


“Đây, Bắc Việt với núi nùng, sông Nhị, cả một vùng cây cỏ thanh u. Trung  Việt với miếu môn lăng tẩm, chốn đế đô nghiêm mật mơ màng và Nam Việt  với đồng ruộng phì nhiêu, nguồn lợi dồi dào của dân tộc Việt”, mà ngày  nay còn phảng phất khắp năm châu, bốn bể, vì đâu đâu cũng in hình dấu  vết của con cháu Lạc Hồng.

Tập thể dân, quân, cán, chính chúng ta đang nỗ lực san bằng mọi trở  ngại, tham gia sinh hoạt trong mọi ngành hoạt động của người Việt quốc  gia hải ngoại, tận dụng và phối hợp khả năng cơ hữu, sở trường riêng tư  của mỗi công dân VNCH hải ngoại trong các lãnh vực: Văn hoá, xã hội,  kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao... để viết thêm trang sử oai  hùng, làm rạng danh nòi giống Tiên Rồng hầu lưu truyền cho hậu thế.

Sau một chu kỳ, mọi sự phải được tái bắt đầu “Thua keo này bày keo khác”  cũng như Triết gia Platon đã nói “Hãy bắt đầu, vì đó là ngưỡng cửa quan  trọng nhất của sự thành công”.

Thương nhau như tri kỷ trong tình huynh đệ chi binh và tình đồng hương  muôn thuở, kết chặt thân tình, kết tinh chí hướng, hầu có thể hoàn thành  sứ mênh cố hữu mà tổ quốc đã giao phó.

Phục vụ tập thể Dân, Quân, Cán, Chính VNCH tại hải ngoại trong hoàn cảnh  tha hương thì cũng như phục vụ chính quê hương chúng ta trong tinh thần  “Tổ Quốc – Danh Dự – Trách Nhiệm” vậy.


“Rồi một ngày mai băng giá hết,
Muôn hoa đua nở, rộn Xuân về”


Trần Xuân Thời


bottom of page