top of page
Banner edge

TÂM TÌNH

TT CSVSQ-HD 1.png

TÂM TÌNH CỰU SVSQ & HẬU DUỆ

TT CSVSQ-HD 2.png
K1 LÂM MINH SƠN

Một


Tuổi vàng – hai từ này,  trước 1975 ít thấy, hay đúng hơn là không  thấy trong ngôn ngữ Miền Nam VN. Ta chỉ thấy những từ đơn giản khi nói đến những người sống lâu là  tuổi già, tuổi thọ, còn cầu kỳ hơn là tuổi  “cổ lai hy” (thất thập cổ  lai hy).


Đối với xã hội VN thì sống  đến 70 quả là hiếm có, nhưng chỉ là hiếm  thôi, chớ không có gì quí cả,  bởi ở tuổi này chẳng giúp ích gì cho cuộc  sống gia đình, mà ngược lại,  phải nhờ vả đến con cháu.


Nhưng ở Mỹ thì khác, công  dân Mỹ khi đến 65 tuổi thì được nhà nước cấp cho Medicare, và nếu lợi  tức thấp, sẽ có Medicaid (TX) hoặc MediCal (CA) nữa. Khi có các thẻ này,  thì sức khỏe của mình được nhà nước lo gần  như 100%. Nằm bệnh viện, mổ  xẻ, khám bác sĩ, thuốc men… hầu như miễn  phí. Đến cả việc cần người  giúp đỡ tại gia cũng không tốn kém gì. Đặc  biệt, để chăm sóc tuổi già,  chính phủ còn cho tư nhân thầu mở các trung  tâm sinh hoạt cao niên giúp  người già đến đó vui chơi, luyện tập, ăn  uống, mà không có gì ảnh  hưởng đến tài chánh của gia đình. Tóm lại, tuổi  già ở Mỹ chẳng những  không làm cho con cháu phải lo lắng tốn kém về chi  phí y tế, mà còn  giúp cho tư nhân có cơ hội làm ăn như các Hội cao niên  và Công ty cung  cấp người chăm sóc tận nhà. Có lẽ vì vậy nên tuổi 70  không phải hiếm,  mà quý nên được gọi là tuổi vàng chăng? Đùa cho vui,  chớ chuyện lạm bàn  này chỉ là của cá nhân mà thôi.


Thật ra, bốn giai đoạn  Sinh, Lão, Bệnh, Tử của con người tôi đã trải  qua 3 rồi. Chính nhờ trải  qua giai đoạn 3 (Bệnh), mình mới biết tuổi  già ở Mỹ được chăm sóc đến  mức độ nào. Năm 2015, vừa chữa xong bệnh bướu  cổ (thyroid), thì bị ruột  thòng, thần kinh tọa, phải vào bệnh viện mổ,  chích cột sống, uống  thuốc, mà không tốn kém gì cả.


Được bác sĩ khuyến cáo  không được ngồi lâu vì tư thế ngồi có ảnh hưởng đến cột sống, vợ chồng  tôi quyết định cố bỏ thói quen của người về  hưu là ngồi trong nhà  “nghiên cứu” tin tức và các hoạt động văn nghệ  hoặc ngồi ngoài sân với  cây rau cọng cỏ. Thay vì đi tập vật lý trị liệu  theo giới thiệu của bác  sĩ, bạn bè khuyên nên vào Hội cao niên sinh  hoạt, cơ thể cũng được  hoạt động và sẽ thấy thoải mái hơn. Chúng tôi đã  bỏ ra một ngày đến  Trung Tâm cao niên AAA thuộc thành phố Garland,  Texas, xem thử và chính  thức trở thành hội viên của trung tâm này kể từ  ngày 22/2/2016.


Hai


…Lý tưởng niềm tin chưa trọn vẹn

Sao đành bỏ bạn, bỏ người thương!


Hai câu thơ có vẻ hờn  trách ai đó, nhưng thật ra là hai câu cuối của  bài thơ tôi đã làm khi  được tin K1 Huỳnh Diễn, người bạn đồng nghiệp, đồng khóa và đồng tù qua  đời vào ngày 20/12/15.


Không để nỗi buồn gặm nhấm  mãi tuổi vàng, vợ chồng tôi quyết định qua nhà Diễn ở Cali để dự tiệc  giỗ 100 ngày, dù sức khỏe chưa được phục  hồi hẳn. Chúng tôi hy vọng  chuyến đi này sẽ biến nỗi buồn mất bạn thành  niềm vui hội ngộ. Quả đúng  như dự định, khi đến nơi tiếp xúc được với  gia đình Diễn, tôi thấy an ủi vô cùng.


Diễn thật có phước. Sự ra  đi trước của Diễn cũng giống người đi Mỹ  có số H.O. nhỏ hơn chúng tôi  mà thôi, nhưng H.O. chỉ đến thiên đường Mỹ, lại còn phải lo cho thân  nhân kẹt lại ở địa ngục trần gian (VNXHCN)  nữa! Còn Diễn thì giờ này  chắc đang thênh thang trên Thiên Đàng thật,  nhìn xuống chúng ta và sẽ  huênh hoang tự đắc: “Cho tụi bay biết thế nào  là lễ độ, hồi đó cứ chê  tao cái gì cũng chậm, bây giờ xem lại coi ai  nhanh hơn ai?” !


Thật sự Diễn đã chuẩn bị  việc ra đi của mình rất kỹ càng, không để lại một  phiền toái nào cho vợ  con, ngoài sự tiếc thương của đời thường.


Vợ chồng tôi cùng hai  người bạn đồng tù, từng chia cơm xẻ áo với  Diễn là Hà Lý Luận và Võ  Minh Lý ngủ lại nhà Diễn ba đêm. Chúng tôi nhắc  lại về tánh tình của  Diễn, thay vì buồn thương tiếc nhớ, lại vui cười  cùng chị Diễn và các  cháu về cái “khó” của Diễn đối với vợ con cùng  “chuyện tỉ mỉ” đối với  bạn bè trong tù với nhiệm vụ quản gia của gia  đình Sở thú (nick name  của nhóm ăn chung của chúng tôi là Voi, Cọp,  Nhái, Gà Tre).


Đặc biệt, chuyến đi này  cho tôi một niềm vui hiếm có không dễ gì tìm được, nếu không nhờ cái  duyên do Huỳnh Diễn tạo ra là việc gặp lại các bạn đồng Khóa 1 HVCSQG  hiện đang sống tại San Jose.

Nói không phải để khoe,  tôi cam đoan rằng, trong các anh em đồng khóa không ai được Diễn (Voi)  thương như thương tôi (Gà tre) đâu. Mười bốn năm chung sống trong tù, từ  Nam ra bắc, Voi và Gà tre không phải chỉ  chia sẻ cho nhau, mà còn chăm  sóc lẫn nhau nữa. Diễn thì thỉnh thoảng  tiêu ra máu do bịnh trĩ nội  (sau này qua Mỹ mới biết) mà cứ tưởng là bị  viêm ruột nên gia đình Sở  thú lo sốt vó. Nhái (Luận) có máu giang hồ,  quen biết nhiều, chạy hết  phòng này đến phòng khác xin thuốc. Tôi và Cọp  (nick name của anh Hổ,  trung úy Quân Đội biệt phái Cảnh Sát) không cho  Diễn làm gì cả. Cọp thì  kê vai cõng, còn Gà tre thì bợ đít Voi khi có  việc phải di chuyển. Khi  thuốc đã cầm bịnh được rồi, gia đình Sở thú lợi  dụng, báo cáo với VC  là bịnh nguy hiểm, nếu cử động nhiều sẽ ra máu lại  nên Voi được nghỉ  lao động một thời gian.


Riêng tôi (Gà tre) thì  khỏi làm việc nhà, sớm tối ra ngoài bươi xới  tìm mồi cho gia đình Sở  thú. Nếu đội lao động gần suối bờ ao thì tìm  cách câu cá, nếu ở rừng, ở  núi thì đánh bẫy bắt chim thú. Tôi chỉ bỏ  công thôi, còn mồi nhử và  “đồ nghề”, thì Voi thực hiện theo cách tôi  chỉ. Diễn là quản gia của  gia đình, tất cả tài sản của Sở thú đều giao  cho Diễn giữ. Bình thường,  Diễn rất hiền, tuy có chút lớn tuổi hơn chúng  tôi, nhưng thường bị bọn  tôi “ăn hiếp”, buộc làm điều này, điều nọ,  Diễn đều nghe theo, nhưng  với nhiệm vụ quản gia thì Diễn thi hành rất  nghiêm túc giữ đúng qui  định do nhóm đặt ra. Trong tù thiếu ăn nên phải  dùng gạo thăm nuôi nấu  thêm. Quản gia phụ trách việc xuất gạo mỗi ngày  một lon để nấu cho cả  gia đình “sở thú” ăn thêm. Và một lon là một lon.  Dù cho có thăm nuôi  được thêm gạo hay nhằm bữa có đồ ăn ngon (tôi đánh  bẫy trúng chim,  thỏ,…) chúng tôi có đòi mấy, Diễn cũng chỉ phát cho một  lon thôi. Lần  lần, số gạo để dành lâu dĩ nhiên bị mốc và có mọt, Diễn  chịu khó mỗi  ngày đem gạo ra phơi nắng, bắt từng con mọt rồi gói cất giữ  lại chớ  cũng không cho chúng tôi ăn thêm hạt gạo nào!


Phần tôi (Gà tre) nhờ lúc  nhỏ, sống với ông già có miếng đất trồng  cây ăn trái cạnh rừng nên mưu  sinh trong rừng không phải là chuyện khó  và cũng đủ sức khỏe để leo  trèo, chui lủi, có điều cổ tôi thường xuyên  đau nhức nếu gặp lạnh hay  gió (tới bây giờ vẫn còn bị)! Diễn biết vậy  nên âm thầm tìm bao cát rồi  cặm cụi may cho tôi cái khăn choàng cho ấm  cổ để hàng ngày lặn lội  kiếm ăn. Tôi dám khoe tôi được Diễn thương nhất trong số các bạn đồng  khóa là vì chuyện này.


Tôi nhớ mãi khi được VC  thả về vào năm 1983 (cả gia đình sở thú chỉ  có mình tôi bị kẹt lại)  Diễn đã nắm tay tôi dẫn ra sau buồng giam và  nói: “ Mi cần gì, nói tao  biết, tao có tao cho ngay.” Nhìn lên, thấy nét  mặt của Diễn buồn giống  ngày được tin đứa con trai duy nhất chết vì  bệnh tim bẩm sinh, tôi  không muốn niềm vui được về của Diễn không trọn  vẹn nên cố đùa một câu:  “Mày thì trên răng dưới dế, có cái gì cho tao  được, tài sản của nhóm  sở thú để lại quá đủ rồi, tao đâu có cần gì nữa.”


Sự thật cái mà tôi cần,  cho đến bây giờ cũng không tìm thấy được. Đó  là sự thương lo mà người  bạn thâm giao đã cho mình trong hoàn cảnh khốn  khổ nhất của cuộc đời.


Hiện  tại, tôi vẫn quấn  khăn quàng cổ khi thời tiết thay đổi, nhưng những chiếc khăn hiệu mua ở  Dillard’s. Macy’s… làm sao bằng cái khăn bao cát ngày xưa. Cái khăn tuy  hôi hám và thô cứng, nhưng nó ấp ủ cả một chân tình!


Trở lại niềm vui hội ngộ  với các bạn đồng khóa hiện sống tại Bắc  Cali, tôi thấy mình như trẻ  lại. tất cả đều là tuổi vàng, và so với họ,  tôi thuộc loại vàng non,  bởi hầu hết Khóa Một HVCSQG đều lớn tuổi hơn  tôi. Lớn gì thì lớn, đồng  khóa nói chuyện với nhau vẫn mày mày, tao tao  như thường.


Trước khi đi Cali, tôi  không hiểu vì sao K1 Bửu Hồng lại nhắn tôi  qua email là khi đến San  Jose, tôi phải gọi báo cho Mệ biết đầu tiên,  nhưng khi đến nơi, cùng  gặp nhau tại nhà K1 Đinh Văn Hạp, tôi mới hiểu  rõ. Thì ra, vợ chồng Mệ  phụ trách phần anh nuôi (nấu ăn) nên cần biết  trước để chuẩn bị. Tôi  không biết mệ có nghề này từ hồi nào, chỉ nhớ là  những ngày cùng ăn ở  Trại Lê Văn Duyệt, Mệ chỉ có hũ ớt đem ra ăn chung  mà thôi.


Đùa cho vui, chớ thật ra  bữa ăn hội ngộ này là một niềm vui đáng giá của tuổi vàng. Dù đã có dâu,  rể, cháu nội cháu ngoại, khi nói chuyện  với nhau, trừ các cô dâu khóa  một, chị chị em em, tụi tôi vẫn dùng ngôn  ngữ y chang như những ngày  thức khuya dậy sớm, dãi nắng dầm mưa trong Học Viện. Có 4 điều khiến tôi  xúc động không thể không nói:


  • Một:   K1 Huỳnh Minh Thanh đóng cửa tiệm sớm hơn thường lệ (dù là đêm Thứ  Bảy)  để tới họp mặt. Thanh và tôi chẳng những cùng chung đại đội 102  (ĐĐ nhỏ  con) mà còn chung tiểu đội khi còn là SVSQ Khóa 1. Sau khi ra  trường,  mỗi đứa một nơi đến bây giờ, sau 49 năm mới gặp lại nơi đất  khách. Đúng  là niềm vui “tha hương ngộ cố tri”.

  • Hai: K1 Đinh Văn Hạp, người  Việt gốc rau nuống, nhưng không làm  chính trị được vì bản tánh thẳng  như ruột ngựa. Nghĩ rằng trong số bạn  cùng Khóa, tôi thuộc thành phần  chịu thiệt thòi vì ở tù 17 năm nên trong  bữa ăn, không cần biết tôi ăn  nhiều hay ít, “Bố” liên tiếp gắp thức ăn  bỏ vào chén tôi.

  • Ba:   K1 Phan Quang Nghiệp từng ăn chung với tôi trong thời gian “cuối mùa   cải tạo” ngồi sát vào tôi thủ thỉ: “Vợ chồng Mệ nấu có hai món ngon  nhất  là Gỏi và Bún Xào. “Nẫu” vừa nói vừa gắp hai món này cho tôi, dù  đồ ăn  của tôi đã ngập tới lỗ mũi rồi!

  • Bốn:   Cú điện thoại từ Nam Cali của K1 Võ Đăng Ngọc báo cho biết không thể   đến Bắc Cali gặp tôi theo dự định được vì tính đi theo K1 Phan Tấn  Ngưu,  nhưng giờ chót Ngưu có chuyện không đi được (sức khỏe bà xã). Tôi  và  Ngọc là hai trong số bảy đứa Khóa Một lang thang ở Đà Nẵng trong  những  ngày mới ra trường vì bốc thăm trúng “Nha Miền Bắc Trung nguyên  Trung  phần” sau khi mãn khóa. Nhưng sau đó, Ngọc lại về Nam còn tôi thì  tiếp  tục ở lại phục vụ cho BCH/CSQG Quảng Nam.


Tóm lại, đời quả là vô thường. Huỳnh Diễn ra đi khiến  khóa Một chúng  tôi, dù đã là tuổi vàng cũng thắm thía với nỗi buồn mất  bạn, nhưng  ngược lại, sự ra đi này là cái duyện cho chúng tôi niềm vui  họp mặt sau  bao năm xa cách và thăng trầm của cuộc đời.


Ba


Sau niềm vui hội ngộ, vợ  chồng tôi về lại Dallas tìm niềm vui mới  trong sinh hoạt cùng các anh  chị tuổi vàng thuộc Trung tâm cao niên AAA.


Vui mới vì gặp lại được  hình ảnh và tiếng nói cũ. Chỉ cần nghe đủ  giọng nói tiếng Việt, từ gốc  Giá, gốc Ớt, gốc Rau muống đến gốc Chợ Lớn,  tự nhiên tôi có cảm giác  như mình được trở lại quê hương. Lúc nhỏ, nhà  tôi bên một chợ Quận, mỗi  sáng sớm thức dậy, âm thanh ồn ào của một chợ nhỏ nghe sao quen với  tiếng nói, tiếng cười trong giờ cơm của Hội AAA quá, một niềm vui khó  tìm trên đất Mỹ này.


Là người Việt Nam tha  hương, không ai không có nỗi buồn mất nước. Có điều đáng mừng là “vong  quốc chứ không vong bản”. Tình cảm, tâm tư VN  vẫn còn mãi trong lòng  mọi người. Tình mẫu tử, nghĩa vợ chồng, niềm hoài  hương được thể hiện  rõ ràng qua từng hành động, cử chỉ của các hội viên  AAA dù tuổi tác đã  bảy, tám bó trở lên.


- Tình Mẫu tử: Chị D.   đã trên bảy bó, một trong những MC của Hội. Thường ngày chị ăn nói,  sắp  xếp mọi việc một cách chững chạc, nhưng trong mùa Vu Lan năm nay,  khi  hát bài Mẹ Tôi trong chương trình “Hát Cho Nhau Nghe”, chị đã khóc  ngất  khiến cho không phải riêng tôi, mà cả mọi người đều sửng sốt và  sau đó  tôi nhìn thấy mắt của cả nam lẫn nữ hội viên đều ứa lệ theo  tiếng khóc  của chị. Cảm xúc này cho tôi một niềm an ủi biết được đồng  hương mình là  kẻ vong quốc nhưng nhất định không vong bổn.


- Nghĩa vợ chồng: Mỗi ngày, chỉ cần nhìn ba cặp vợ chồng anh chị Tâm, anh chị Tony Lê,   anh chị Anh, tôi cảm nhận được ngay cái “nghĩa vợ chồng” của người Việt   Nam không cộng sản tuyệt diệu như thế nào. Dù anh chị bị bệnh phải kẻ   đẩy, người ngồi trên xe lăn, dù tuổi tác đã bảy, tám bó, nhưng ánh mắt   và nụ cười trao nhau của họ, tôi nghĩ người Mỹ không thể nào so sánh   được. Họ thương lo cho nhau bằng cả một tấm lòng chớ không phải vì tiền   công hay nhiệm vụ như ta thường thấy trong xã hội thực dụng này.


Một lần, trong một buổi  tiệc sinh nhật do Hội AAA tổ chức, anh Tony  Lê dù đã hơn bảy bó, bước  lên sân khấu hát bài Lâu Đài Tình Ái và tuyên  bố với mọi người là để  riêng tặng cho người vợ yêu quý của anh. Bà xã  tôi rất cảm động nhưng  thay vì khen anh Lê, lại nổi “máu đàn bà” hỏi  tôi: “Nếu em bịnh, anh có  làm được như anh Lê không?” Tôi không trả lời, nhưng nghĩ là “Được” vì  tôi không phải là người VN mất gốc.


- Niềm hoài hương:   Anh Thức, một chiến sĩ Hải quân VNCH rất rành âm nhạc nên tuy đã hơn   tám bó, vẫn được xem là ca sĩ trụ cột của chương trình “Hát Cho Nhau   Nghe”. Trong một buổi trình diễn, anh hát bài Vĩnh Biệt Sài Gòn của Nam   Lộc, khi hát tới câu “Sài Gòn ơi, ta hứa rằng ta sẽ trở về”, thì ngưng   hẳn. Mọi người tưởng anh quên, nhưng tôi đã thấy mắt anh ngấn lệ và  tôi  cũng vậy vì tôi và anh có sự đồng cảm với câu hát này. Về Việt Nam  với  thành phố HCM, thì lúc nào cũng được, nhưng về lại VN với Thủ đô  Sài Gòn  không phải là chuyện dễ. Ngấn lệ của anh có phải là ngấn lệ ấm  ức, nghĩ  rằng đến cuối đời cũng không thể giữ được lời hứa mà mình vừa  cất tiếng  ca chăng?!


Bốn


Sự ra đi của K1 Huỳnh Diễn  cho tôi cái duyên gặp bạn đồng khóa, thì việc gia nhập vào Hội AAA giúp  tôi cơ hội được sinh hoạt hàng ngày với hai đồng nghiệp của thời trước  1975. Vô tình, vợ chồng tôi được sắp xếp ngồi cùng bàn ăn với anh Nguyễn  Văn Bông và anh Phạm Huy Cầu là hai tuổi  vàng đã gia nhập Hội trước  chúng tôi. Hỏi thăm nhau, té ra tất cả đều  là CSĐB của CSQG/VNCH. Anh  Bông tám bó, thuộc F/ĐB Quận 8 Sàigòn, còn  anh Cầu là thẩm vấn viên của  F/ĐB Bình Dương.


Cuộc đời đúng là vô  thường. Ngày xưa trong tù cộng sản, ngày ngày  tôi đã chung mâm với đồng  nghiệp K1 Huỳnh Diễn, thì bây giờ, mấy chục năm sau, trên đất khách quê  người, bữa bữa tôi cũng lại cùng ăn với đồng  nghiệp Bông, Cầu.


Khi đã là hội viên của Hội  AAA thì niềm vui nỗi buồn của chúng tôi  lệ thuộc vào sinh hoạt của hội  hết 70% thời gian một ngày rồi. Vì từ lúc  ăn sáng cho đến giờ về chúng  tôi luôn lu bu với niềm vui tập thể; nào  là ăn sáng, đánh bóng bàn,  tập thể dục, cờ tướng, domino, binh xập xám,  xòe tứ sắc, ăn trưa, sinh  hoạt văn nghệ, cuối cùng là chơi Bingo tới 2  giờ chiều mới chia tay.  Nhờ ăn chung, chúng tôi rủ nhau đi dự các buổi  sinh hoạt của Hội CSQG  địa phương là Hội CSQG Dallas (TX). Tham dự sinh hoạt của Hội Cảnh Sát  là chuyện đáng làm của một chiến hữu CSQG tại hải  ngoại, nhưng không  phải dễ dàng đối với các chiến hữu ở lứa tuổi vàng vì  con cháu bận, mà  mình thì không lái xe đi xa được. Tôi may mắn có đứa  con rể hành nghề  tự do, không bị ràng buộc nhiều về giờ giấc đến hãng  nên lúc nào cũng  sẵn sàng chở tôi đến dự sinh hoạt của Hội dù địa điểm  tổ chức khá xa  (cách nhà khoảng một tiếng đồng hồ chạy xa lộ).


Năm nay (2016), do cơ  duyên gặp và quen nhau ở Hội AAA, anh Bông đã được dự Ngày Truyền Thống  CSQG nhờ tháp tùng với gia đình tôi, nhưng khi  đến nơi, niềm vui thêm  người của tôi bị hụt hẫng vì người tham dự chỉ  ngồi chừng hơn nửa số  bàn của buồng ăn thay vì hai buồng như thuở ban  đầu!

Cách nay 12 năm (2004),  lần đầu tiên tôi dự Ngày Truyền Thống CSQG ở Dallas, tôi có cảm giác ngỡ  ngàng vì sự chào hỏi của đồng nghiệp. Ai nấy cũng lăng xăng tay bắt mặt  mừng. Năm nay, tôi cũng ngỡ ngàng, nhưng ngỡ ngàng vì hậu quả của thời  gian đã ảnh hưởng đến vóc dáng bạn bè và  không gian của buổi lễ. Sự  thiếu vắng gia tăng không phải do tâm trạng  các chiến hữu CSQG đổi thay  mà do kết quả tự nhiên của tiến trình Sinh,  Lão, Bệnh, Tử buộc con  người phải gánh chịu! Nhờ biết nghĩ thoáng, nỗi  buồn hụt hẫng chỉ  thoáng qua và nhường lại cho niềm vui hội họp.


Thời gian dù khắc nghiệt cũng không thay đổi được tấm lòng của con người VN chân chính.


Các tuổi vàng CSQG từ bảy  đến hơn tám bó khệnh khạng bước lên sân khấu, cất cao tiếng hát: “Tổ  Quốc chúng ta luôn luôn ta trung thành”. Đặc biệt, có những cố gắng tuy  ngắn ngủi nhưng cũng xoa dịu được nỗi ưu  tư của mọi người về hậu quả  thời gian:


- Niên trưởng Lê Sơn Thanh đã hơn chin bó vẫn lên sân khấu phát biểu một cách mạch lạc và đầy đủ ý nghĩa.


- Hậu duệ Hứa Kính đã tham gia ban hợp ca CSQG và sốt sắng đơn ca giúp vui dù tiếng Việt không rành.


Kết cuộc, tuy sự hiện diện  của các chiến hữu CSQG có ít đi, nhưng tổ chức buổi lễ cũng thành công  mỹ mãn, chứng tỏ tuổi đời có thay đổi nhưng tình đời chẳng đổi thay. Tổ  Quốc VN vẫn ở mãi trong lòng các tuổi vàng CSQG/VNCH.


Năm


Cuộc sống tuổi vàng AAA  không chỉ hạn chế bởi sinh hoạt hàng ngày trong cơ ngơi của Hội mà thỉnh  thoảng được Hội giới thiệu và yểm trợ tham dự các sinh hoạt văn nghệ  ngoài xã hội.


Hình thức giải trí này  trước đây vợ chồng tôi không để ý tới, bây giờ  có bạn bè rủ rê, chi phí  lại được yểm trợ 50% nên cũng chấp nhận đi thử cho biết.


Đặc biệt trong một đêm  tham dự buổi ra mắt của nhóm thiện nguyện thuộc Cộng đồng NVQG Dallas,  tự nhiên trong lòng thấy thoải mái, vì nỗi  ưu tư của mình phần nào được  xoa dịu. Ưu tư này, theo tôi nghĩ, không  phải của riêng tôi mà của hầu  hết thế hệ Một, là không biết khi mình ra  đi, đám trẻ có mất gốc không?


Tôi cứ nghĩ các buổi văn  nghệ kèm theo ăn uống, nhảy nhót là của giới trẻ, không có chiều sâu,  chỉ tạo sự vui nhộn sống động để xả cảng những  căng thẳng của cuộc sống  máy móc, nhưng tôi đã lầm.

Trên sân khấu hạn chế của  một quán ăn, từ các điệu vũ dân tộc, cách  ăn mặc của người diễn xuất  đến lời ca của bản nhạc được trình bày, tất  cả đều nhắc nhở khán thính  giả về tình yêu Tổ quốc, về buồn đau dân tộc, về mất mát và hy sinh của  những người đi trước đã cố gắng bảo vệ quê hương. Tôi đã ngậm ngùi và  ngạc nhiên khi nghe một nam ca sĩ trình bày ca khúc “Niềm Đau Của Người  Thương Binh”. Ngạc nhiên không phải chỉ vì  giọng ca và lời ca gây xúc  động, mà vì, sau khi hỏi thăm, tôi biết, từ  ca sĩ đến nhạc sĩ đều thuộc  thế hệ “một rưỡi” của chúng ta – những kẻ  phải sống kiếp tha hương do  định mệnh! Đặc biệt, nhạc sĩ là cháu H. Lan, Trưởng Nhóm Thiện nguyện.  Khi lên sân khấu để nói về lý do thành lập nhóm, cháu cho biết, ngoài  nhiệm vụ của một trưởng ban văn nghệ, cháu  còn tình nguyện đến các  Trung tâm dưỡng lão giúp đỡ người già yếu bệnh  tật. Có một lần, đến  Viện Dưỡng lão phục vụ, khi ra về, cháu quay lại  trông thấy một cụ bà  nhìn theo cháu với ánh mắt mà cháu không thể nào  quên được. Từ đó, cháu  mới có suy nghĩ là tại sao mình không tìm số bạn  có lòng như mình để  giúp đỡ những người cần mình giúp. Cháu cũng không  khó khăn gì, khi tìm  các bạn đồng lứa chịu gia nhập nhóm bởi các cháu  đều hiểu rõ thế nào  là nỗi buồn đơn chiếc và mất mát.


Trước giờ, tôi chỉ biết thế hệ con cháu mình qua các phương tiện truyền thông. Ở tuổi thuộc thế hệ một rưỡi,   nhiều nhân vật nổi tiếng như khoa học gia Dương Nguyệt Ánh, Tướng  Lương  Xuân Việt,… và cũng khá đông các nam nữ khác của thế hệ này đã  làm hãnh  diện cho dân tộc VN không theo cộng sản, trong và ngoài nước.  Tuy vậy,  tôi vẫn còn ý nghĩ tiêu cực là đám trẻ vẫn chưa đủ phẩm và  lượng để nối  gót thế hệ cha ông!


Trong một lần nói chuyện với K1 Phan Tấn Ngưu, Tổng  Hội Trưởng Tổng Hội CSQG/VNCH, tôi có nghe bạn nói, trong năm nay  (2016), tuy có nhiều  việc ngoại lệ hơn mọi năm (tổ chức 50 Năm Thành  Lập HVCSQG, 50 Năm Hội  Ngộ K1 Học Viện) nhưng bạn đang cố sắp xếp trao  nhiệm vụ của mình cho  thế hệ nối tiếp. Tuy nghe vậy, tôi vẫn hoài nghi  vì hai chữ phẩm và lượng mà tôi đã đề cập, nhưng sau  khi thấy Nhóm Thiện Nguyện tới Hội AAA làm  móng tay miễn phí cho các Cô  các Bác và đặc biệt, biết được cháu H. Lan  cố để tóc dài cho đủ kích  thước để cắt tặng Hội từ thiện giúp đỡ bịnh  nhân ung thư thì nỗi hoài  nghi của tôi không còn nữa. Đã đến lúc thế hệ một rưỡi đủ phẩm và lượng để nối bước thế hệ Một.


Tôi chợt nghĩ đến một tư duy lập dị nhưng chính xác là tuổi kim cương. Nếu tuổi của thế hệ MộtTuổi Vàng thì tuổi của thế hệ Một Rưỡi phải là Tuổi Kim Cương vì chỉ có kim cương mới đủ sáng để rọi đường cho đàn em và đủ cứng để   soi thủng đầu não của các tên lãnh đạo CSVN đang tham quyền cố vị,  không  quan tâm gì đến sự tồn vong của đất nước!


Đã hơn 50 năm rồi, phải  thành thật mà nói, hình ảnh của người CSQG/VNCH vẫn còn đậm nét trong  tâm khảm người Việt hải ngoại là nhờ sự  đóng góp bền bỉ không vụ lợi  của các chiến hữu sống lưu vong trên khắp  thế giới. Thời gian trôi qua,  từ lứa tuổi trung niên đến lứa tuổi vàng,  số chiến hữu mà tôi quen  biết như: Phạm Giao, Vương Thế Hỷ, Đoàn Tống  (Dallas), Phan Tấn Ngưu,  Nhữ Đình Toán, Nguyễn Doãn Hưng, Nguyễn Thanh  Thủy (Thiên Nga), Phan  Quang Nghiệp, Thái Văn Hòa, Nguyễn Ngọc Thụy  (CA), Nguyễn Văn Nhì  (GA),… đã miệt mài năng nổ đóng góp công sức duy  trì 4 chữ CẢNH SÁT  QUỐC GIA trong lòng người VN sống lưu vong.


Không phải chỉ có các  chiến hữu tôi quen mà tôi biết, còn rất nhiều chiến hữu khác cũng tình  nguyện làm việc không công này. Vì sao vậy? Để bào chữa cho cái thua kém  của mình, tôi chỉ có thể dùng thuyết nhân quả  để trả lời: “Tại vì kiếp  trước họ là thợ săn voi nên bây giờ phải vác  ngà voi, chớ có gì lạ  đâu!”


Đùa cho vui chớ tôi biết,  các bạn chẳng bao giờ cảm thấy mình là  người vác ngà voi cả. Trong thời  gian chờ đợi thế hệ kế tiếp chuẩn bị  sẵn sàng, tôi xin kết thúc bài  viết này bằng 4 câu thơ vui góp ý như  sau:


Thời gian lặng lẽ cứ trôi qua

Bận biụ lu bu chẳng thấy già

Đã vác ngà voi nên vác tiếp

Thiên đàng, địa ngục vẫn còn xa!


Lâm Minh Sơn (K1)

bottom of page