TÂM TÌNH
TÂM TÌNH CỰU SVSQ & HẬU DUỆ
K8 DUY VĂN HÀ ĐÌNH HUY
Cụm từ "Học Tập Cải Tạo", không có mới mẻ gì, bởi tự điển Việt Nam dù nhỏ hay lớn đều có định nghĩa rõ ràng. Theo bộ tự điển của Lê văn Đức và một nhóm thân hữu, được Lê Ngọc Trụ hiệu đính (quyển thượng): học tập có nghĩa học và luyện tập, cải tạo nghĩa là bỏ cái cũ, tạo cái mới. Nghe qua cụm từ trên người ta liên tưởng đến sự thay đổi, về mặt xã hội được tốt hơn, và về con người thì có cách suy nghĩ mới văn minh hơn…
Cuộc cách mạng cải tạo kỹ thuật ở Nhật Bản sau đệ nhị thế chiến đã đưa bộ mặt xã hội từ một nước bị thua trận, lệ thuộc vào nước ngoài trở thành một xã hội văn minh có tầm vóc cao trên trường quốc tế. Người dân Nhật kiên quyết học tập cải tạo và kiên quyết từ bỏ cái suy nghĩ cũ rích, lạc hậu, để đón nhận tư tưởng mới họp thời, họp trào lưu, nên họ đã đưa được đất nước của họ đến cường quốc như ngày nay. Cụm từ "học tập cải tạo" người Nhật đã định nghĩa đúng và khai triển rất thuần lý về mặt ý nghĩa. Chính phủ Nhật Bản đã áp dụng ý nghĩa của cụm từ này thật rõ ràng, trong sáng không như những chính thể độc tài, cộng sản thường hay dùng thuật ngữ để đánh lừa người dân của họ.
Trong thế chiến lần thứ hai, chính quyền Đức tuy là phát xít độc ác, nhưng họ vẫn giữ trong sáng từ ngữ khi đối với tù binh chiến tranh, họ không sử dụng từ "Trại cải tạo" hay "học tập cải tạo". Từ "trại tập trung" hay "trại tù" thường thấy trên văn kiện hành chánh của chính quyền phát xít Đức. Họ thực dụng với từ ngữ không đánh lừa với kẻ bại trận. Ngay cả nước cộng sản Campuchia, chính quyền Pôn Pốt khi chiếm lãnh cai trị toàn nước, tạo ra một cuộc diệt chủng vĩ đại, giết chết hàng triệu người trong đó có cả quân, dân cán chính, của chính quyền Lonol, nhưng họ cũng không lấp lửng trong danh từ khi họ dùng trường học hay hotel để nhốt những người chống lại họ. Những nơi họ dùng để giam cầm người họ đều dùng một từ duy nhất là "trại tập trung" hay nhà tù. Họ nói rõ ra, chứ không dùng thuật ngữ xảo quyệt.
Riêng cộng sản Việt Nam, sau khi chiếm được miền Nam họ lùa quân, cán chính của chế độ Việt Nam Cộng Hòa vào những trại tập trung (nhà tù) khổng lồ họ lập ra từ Bắc chí Nam để giết lần giết mòn những người này qua hình thức khổ sai lao động, bệnh tật, đói khát mà họ không dám gọi là nhà tù. Trên mặt tuyên truyền họ thường gọi nơi giam giữ những quân cán chính VNCH là "trại học tập cải tạo". Theo cụm từ này "trại học tập cải tạo" là nơi đó tập trung lại những người Việt Nam vi phạm pháp luật vướng vào tệ đoan xã hội, hoặc các nhân vật bất đồng chính kiến với chính phủ có thể tập trung và cải tạo. Định nghĩa như thế, họ xem ra miền Nam trước đây là một vùng đất thuộc họ cai trị và bị tạm chiếm do một nhóm người "phản động" đứng lên chiếm lấy chống lại chính quyền chính thống mà họ đang lãnh đạo. Nên họ thường tuyên truyền gọi chính quyền miền Nam là "Ngụy quyền". Cái quan niệm theo kiểu cộng sản của họ là một lối suy nghĩ vô luật lệ, mang tính rừng rú, hoang dã. Vì bản chất ngang ngược lập luận tính hoang dã như vậy, nên họ đã bất chấp hiệp định Genève mà họ đã đặt bút ký vào ngày 20 tháng 7 năm 1954, và theo hiệp định quốc tế này đã quy định rõ ràng rằng: Việt Nam Cộng Hòa là một quốc gia có chủ quyền được hơn 100 nước trên cộng đồng quốc tế công nhận. Và cũng vì tính rừng rú xảo quyệt đó nên họ đã bất chấp hiệp định Ba Lê xua quân chiếm miền Nam, trong khi đó chính quyền miền Nam hành sử theo luật lệ văn minh không vi phạm hiệp ước nên có phần thiệt thòi, hậu quả là mất nước.
Cũng với trò xảo quyệt về cách dùng từ ngữ hay nói khác hơn là "chơi chữ" theo hạ sách. Cộng sản Việt Nam đã trấn an được tâm lý của người dân từng thời điểm để từ đó thi hành toàn bộ kế sách thống trị của họ, mà ít khi bị chống đối.
Bởi bản chất của cộng sản thường hay bịp bợm, xảo quyệt, nói dối, nên họ tránh né không dám nhận nơi giam giữ người là nhà tù.
Quân Cán Chính Việt Nam Cộng hòa không phải là công dân của nước "Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa" do một số lãnh tụ cộng sản là tai sai của Nga Tàu cai trị nên không thể có danh từ "học tập cải tạo" đối với họ. Quân Cán Chính Việt Nam Cộng Hòa là những thành phần ưu tú của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa tự do, đang bảo vệ tự do chống lại sự xâm lược của cộng sản quốc tế muốn nhuộm đỏ Đông Nam Á mà điển hình là cộng sản Bắc Việt đang thi hành kế sách đó.
Quân Cán Chính Việt Nam Cộng Hòa là một thực thể pháp nhân hiện hữu, là những quan chức của một chính quyền họp hiến hợp pháp, nên theo quy chế chiến tranh, khi bị sa cơ thất thế phải được hưởng quy chế tù binh. Phải được đối đãi theo quy chế tù binh và nơi giam giữ họ phải có danh gọi thật minh quang và sáng nghĩa đó là trại tập trung hay trại tù binh, chứ không thể lấp lửng là "trại học tập cải tạo" được.
Quân Cán Chính Việt Nam Cộng Hòa, đã là những người có tâm hồn nhiệt huyết và lý tưởng cao cả trong suốt thời gian phục vụ cho đất nước Việt Nam Cộng Hòa, bảo vệ tự do cho người dân, họ đã hành sử theo truyền thống văn hóa ngàn đời của nước nhà và văn minh của nhân loại, cùng với sự tiến bộ loài người nên hơn hẳn những con người trong thể chế của nhóm các nước "xã hội chủ nghĩa" thời đó đã có. Vì họ đã hơn hẳn nên không cần phải "học tập cải tạo" với những ai thấp kém hơn họ.
Học tập cải tạo là học những gì hay, tốt văn minh hơn cái cũ, mới gọi là cải tạo. Xin đi ngược lại thời điểm 30 tháng 4 năm 1975, nếu đem so sánh toàn diện giữa hai chế độ Việt Nam Cộng Hòa miền Nam và Xã Hội Chủ Nghĩa miền Bắc thì phải công nhận rằng, miền Nam Việt Nam Cộng Hòa văn minh hơn, giàu có hơn. Tuy rằng có chiến tranh nhưng từ thành đến quê vẫn sống đầy đủ sung túc, người dân luôn tự do tiếp cận với các nguồn văn minh của tây phương. Còn chính thể cộng sản miền Bắc, nghèo đói, lạc hậu, người dân bị kềm kẹp, suy nghĩ một chiều, mọi giao tiếp đều bị cấm đoán.
Nhận xét bối cảnh trên, một nhà xã hội người Pháp nhận định: "Người dân miền Nam nói chung và Quân Cán Chính Việt Nam Cộng Hòa nói riêng không có gì để học tập dưới sự lạc hậu nghèo đói và độc tài của chủ nghĩa cộng sản miền Bắc cả. Người miền Nam vốn tốt bụng cũng cần chia sẻ cái hay của mình cho một đồng chủng vốn quá lạc hậu dù hiện tại đang bị kềm kẹp dưới bàn tay sắt của cộng sản."
Quân Cán Chính Việt Nam Cộng Hòa không thể là một "cải tạo viên" theo danh gọi của bọn cai tù. Ông P.MAC một thành viên trong hiệp ước đình chiến Ba Lê nhận định: "Trái với công ước Genève quy định về cách đối xử với tù binh chiến tranh, những thành phần Quân Cán Chính Việt Nam Cộng Hòa bị bắt buộc phải đi lao động, làm việc ở các nông trường, công trường, trong những trại được chính quyền cộng sản lập ra nơi rừng sâu nước độc, trên núi non, cực khổ, hàng chục ngàn người đã bị chết, do không chịu được cuộc sống khắc nghiệt trong các trại giam kém chất lượng hoặc vì ăn uống thiếu thốn. Sau khi chết đa số những người tù này chỉ được chôn bằng những nấm mồ sơ sài, không mộ bia, khiến sau này thân nhân của họ gặp khó khăn trong vấn đề đi tìm tung tích để cải mộ.
Những người sống sót sau thời gian gọi là "học tập cải tạo" được đưa về địa phương để làm việc và sinh sống trong tình trạng quản chế tại gia. Vì bị lý lịch xấu (theo quan niệm của chế độ cộng sản) nên khi được trả tự do, cuộc sống của nhiều cựu tù nhân và gia đình gặp rất nhiều khó khăn do tình trạng phân biệt đối xử."
Bởi là công dân của nước VNCH, nên những người làm việc dưới thể chế này khi bị bắt giam cầm không thể chịu mang danh là "cải tạo viên". Họ xứng đáng với danh xưng "tù binh chiến tranh". Họ phải hưởng quy chế theo quy chế của một tù binh. Chính sự căn cứ trên lý lẽ công pháp quốc tế nên các nước có liên hệ trong cuộc chiến, phải có trách nhiệm, nhất là Hoa Kỳ đã đưa ra chương trình H.O để những tù binh bị gán đặt danh "cải tạo viên" này ra khỏi nơi trại tù rộng lớn là nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam trên tinh thần giống như là trao đổi tù binh khi cuộc chiến chấm dứt.
Cũng theo quy chế tù binh, sau khi cuộc chiến kết thúc, hai bên liên hệ chiến tranh phải có nhiệm vụ giải quyết vấn đề tù binh để những người lính trở về đồng đội hay đất nước của họ hoặc ít ra cũng đưa họ về với lý tưởng mà họ từng chiến đấu. Quân Cán chính Việt Nam Cộng Hòa không còn đất nước để họ trở về nên đã được những phe liên hệ chiến tranh thay vào đó bằng nguyện vọng tự do dựa tinh thần quy chế tù binh quốc tế Genève (chiến đấu cho lý tưởng nào khi ra trao trả tù binh sẽ về với ý nguyện đó).
Cho nên không có gì phải ngạc nhiên tại sao có chương trình nhân đạo H.O mà Hoa Kỳ đại diện cho phía tự do cùng với cộng sản Việt Nam thực hiện những cam kết quốc tế về quy ước tù binh trong mấy thập niên qua. Cũng nên nhắc rằng, trong chương trình nhân đạo này, cộng sản Việt Nam bắt buộc phải thực hiện. Người tù nhân chiến tranh Việt Nam hôm nay đã được tròn sở nguyện của mình là chiến đấu dưới lá cờ tự do, cho nền dân chủ tự do và nay đã thật sự có tự do.
Cũng nên bàn rộng thêm về cụm từ "học tập cải tạo". Cộng sản Việt Nam tuyên truyền với quốc tế rằng Quân Cán Chính của VNCH là "ngụy quân và ngụy quyền" nên phải cải tạo họ. Họ không phải là tù binh chiến tranh. Cái lối lập luận này nhằm cốt để nêu chính quyền của cộng sản là hợp pháp và sau đó là để chạy trốn trách nhiệm về quy chế tù binh. Nếu là "cải tạo viên", thì Quân Cán Chính VNCH không thể hưởng quy chế tù binh theo luật quốc tế, sẽ không được trở về đồng ngũ để tiếp tục chiến đấu và theo sở nguyện và không thể định cư ở một xứ nào có cùng một thể chế mà họ chiến đấu. Theo một tài liệu tin cậy, thì vào khoảng thập niên 80, cộng sản Việt Nam đã cố tránh né vấn đề bàn luận sau thời hậu chiến cùng với các nước lâm chiến về vấn đề tù binh. Họ cứ khư khư cho rằng việc Quân Cán Chính VNCH bị bắt là việc nội bộ của đất nước Việt Nam. Nhưng nhóm liên hệ trong chiến tranh gồm có: Mỹ đứng đầu thế giới tự do và Nga tầu đứng đầu phe cộng sản quốc tế, bác bỏ luận cứ bảo thủ này của cộng sản Việt Nam. Vì trên giấy trắng mực đen nơi Hội Nghị 4 bên ở Ba Lê, Việt Nam Cộng Hòa là một quốc gia hợp hiến, hợp pháp, có chủ quyền có chính phủ và quân đội. Việt Nam Cộng Hòa chiến đấu chống lại khối cộng sản quốc tế điển hình là ngăn chặn làn sóng xâm lăng của quân Bắc cộng. Vì thế việc cộng sản Việt Nam buộc phải công nhận Quân Cán Chính VNCH bị chúng bắt giam là một tù binh chiến tranh. Tuy nhiên trong nước họ vẫn thường gọi những chiến sĩ tự do của VNCH là “Cải tạo viên”.
Duy Văn Hà Đình Huy