top of page
Banner edge

TÂM TÌNH

TT CSVSQ-HD 1.png

TÂM TÌNH CỰU SVSQ & HẬU DUỆ

TT CSVSQ-HD 2.png
LÊ THỊ XUÂN

Tối ngày 28.6.1975 tôi bị  di chuyển cùng chung với chồng từ Trường Trung Học Nguyễn Bá Tòng tại  Sài Gòn đến Trại Suối Máu được khoảng 1 tuần lại bị chuyển đến trại  Thành Ông Năm, Hóc Môn do đoàn 500 cộng sản quản lý.  Trại chia làm hai  khu: Nữ Sĩ Quan (SQ) Quân đội, và Nữ SQ/CSQG. Chúng  tôi bị chia thành  từng B và phải chen lấn lẫn nhau trong một diện tích chỉ đủ để nằm  nghiêng.


Lúc nầy tôi mang thai cháu  đầu lòng gần 7 tháng. Đây là thời gian thai nhi phát triển, nên thai  phụ cần được nghỉ ngơi, thoải mái, tránh bị những áp lực và thai phụ cần  phải được thực phẩm dinh duỡng vừa tinh khiết vừa đầy đủ. Nhưng với tôi  thì hoàn toàn trái ngược. Ngoài môi trường sống quá thiếu vệ sinh, lại  phải ngồi nghe học tập, thảo luận, đấu tố.


Thể chất mệt mỏi, tâm trí  lúc nào cũng lo sợ cho bản thân, cho gia đình, và cho chồng. Thai nhi  càng lúc càng phát triển nên tôi thèm ăn lắm, nhưng bụng thì lúc nào  cũng đói, dinh dưỡng chẳng có, áp lực càng lúc càng nặng và rồi hai chân  tôi bị quỵ, chỗ kín bị ra máu, không đuợc chữa trị hoặc thuốc men. Tôi  đuối sức! Trước tình trạng sức khỏe tồi tệ và mạng sống của tôi bị đe  dọa, ngày 12.8.75 Cộng sản (CS) thả tôi về với lý do: "tạm hoãn quản huấn vì sắp đẻ” (nguyên văn).


Về đến nhà thì ba mẹ và  các em nhỏ của tôi đã bị lùa ra khỏi Sài Gòn theo chương trình gọi là  hồi hương lập nghiệp tại Sa-Đéc. Sức khỏe quá yếu, không đi được tôi  đành ở lại căn nhà cũ (bấy giờ thì gia đình thím tôi đang ở). Đến đầu  tháng 9.75 đau chuyển bụng, tôi đến bảo sanh viện  Từ Dũ. Sau khi sinh  cháu bé, tôi mệt lắm, nhưng gắng gượng xem mặt cháu, biết cháu là gái,  thấy khuôn mặt con hao hao giống bố, lòng mình dâng nỗi nhớ chồng và dào  dạt thương con, tôi ôm con vào lòng và ngất đi vì bị băng huyết. Tỉnh  dậy tôi trở về tâm trạng cũ, may mắn cho tôi là CS chưa kịp đưa người  của chúng vào nên nhân viên và bác sĩ vẫn còn tấm lòng nhân ái và phong  cách Miền Nam và nhờ đó tôi thoát khỏi luỡi hái tử thần. Vì lý lịch, nên  tôi bị tống ra khỏi bịnh viện sau 4 ngày mặc dầu tôi còn yếu và cháu bé  gầy guộc chỉ được 2kg. Tôi lại phải bế cháu tìm đường về Sa Đéc.


Khi chiếc tàu đò đậu trước  cửa nhà, lòng tôi càng thêm não nề. Đây là khu hoang địa, xưa kia là  khu oanh kích tự do và không có dân cư, vì thế vùng nầy có rất nhiều hố  bom. Thấy gia đình lam lũ, tôi vô cùng xót xa, vì vậy tôi ráng sức phụ  giúp gia đình và tôi lại thêm lần nữa ngã qụy. Đúng vào thời gian nầy,  khi cháu được hơn một tháng thì mẹ con tôi bị bắt trở lại trại giam.


Sáng hôm ấy, đang cho con  bú, tôi nghe tiếng ghe máy và tiếng người, rồi tiếng chân dồn dập nhảy  lên bờ, chạy về phía nhà tôi. Sống trong vùng cộng sản kiểm soát tâm  trạng tôi luôn luôn hồi hộp lo sợ… Đang còn hoang mang thì tôi đã thấy  họ bao quanh nhà tôi, những mũi súng chĩa thẳng vào mẹ con tôi. Tôi nghe  đạn lên nòng và tiếng ra lịnh của tên chỉ huy: - Các đồng chí vào vị  trí sẵn sàng tác chiến.


Sau đó tiếng quát ra lịnh:  - Chị Lê Thị Xuân, tuyệt đối tuân theo mệnh lệnh, không được chống đối,  chấp hành lệnh quản chế, thì sẽ được cách mạng khoan hồng!


Tiếp theo là hai tên có võ  trang tiến sát vào giường mẹ con tôi. Tôi biết là tôi đã bị bắt. Tôi  không sợ, nhưng tôi thương con quá, phần không muốn phải xa con, phần sợ  con phải chịu cảnh lao tù. Tôi thật sự lúng túng vì cả nhà tôi đang làm  ngoài ruộng. Tôi ngỏ ý chờ người nhà tôi về.. Nhưng chúng nhất định  không cho. Bị thúc hối quá cấp bách; tôi chỉ viết vội là đã bị bắt lại  cho gia đình biết, rồi gom nhanh ít tã  lót, ít quần áo, vật dụng cho  hai mẹ con và theo chúng xuống xuồng máy giữa hai hàng súng “dàn chào  bảo vệ”của chúng.


Sau nầy tôi biết tên hung  tợn chỉ huy cuộc vây bắt hai mẹ con tôi tên là Hiếu. Tôi đã có lần gặp  hắn tại Sài Gòn trong nhà người cùng quê với mẹ tôi. Người nầy là SQ  Quân Lực VNCH che chở cho hắn trốn quân dịch, lúc ấy hắn làm phụ thợ hồ.  Trước ngày tôi định cư tại Mỹ thì hắn là Phó chủ tịch Nông nghiệp huyện  Thạnh Hưng, tỉnh Đồng Tháp và dĩ nhiên là rất hống hách, ngang tàng và  giàu có.


Bọn chúng chở hai mẹ con  tôi về trại giam Đám Lát thuộc huyện Lấp Vò, Tỉnh Đồng Tháp. Trại giam  nằm trên gò đất, chung quanh có nhiều hàng rào giây kẽm gai bao bọc,  chúng cẩn thận gài mìn và chất nổ đề phòng sự trốn trại của tù. Trại nầy  giam đủ thứ thành phần từ SQ chế độ cũ, tôn giáo, đảng phái chính trị…  đến thường phạm. Vì có con nhỏ nên chúng cho mẹ con tôi ở riêng một góc  xó nhà bếp, vách nhà làm bằng đất sình trộn với trấu, nên hôi hám và  nhiều bụi dơ, gió mang theo hơi nóng làm rát da.


Tôi mượn nhà bếp hai tấm  bao bố gạo làm chiếu và mền đắp cho con, còn mình thì nằm hẳn trên đất.  Mỗi buổi chiều mẹ con tôi được nữ quản giáo dẫn xuống một cái đìa nhỏ để  tắm giặt. Vì cái đìa nhỏ nầy khi nước triều cường mới có chút ít nước  từ sông cái tràn vào, do vậy mà những chất dơ bẩn không kịp thoát ra, vì  thế nước có màu đen của dơ, màu vàng của phèn, mùi hôi thối luôn luôn  phảng phất, đó cũng là mầm mống bịnh  hoạn.


Thức ăn không đủ nuôi cơ  thể thì làm sao có sữa để nuôi con! Vì thế, các bạn tù đồng ý cho tôi  mỗi ngày được lưng chén nước cơm có lẫn dăm hạt gạo đang sôi để phụ cùng  với giòng sữa hiếm hoi nuôi con. Phải sống trong hoàn cảnh tù đày dưới  chế độ cộng sản mới hiểu thế nào là đói, mới hiểu giá trị miếng ăn và  mới hiểu đó là sự hy sinh, là tấm lòng nhân ái mà Xã hội Quốc Gia đã  giáo dục cho họ. Tôi biết ơn các bạn tù, cơn đói không lúc ngưng dày vò,  trí óc chỉ ước mơ đến chuyện ăn, như mơ được một chén cơm lưng, thẻ  đường, hột muối, giọt mỡ. Ôi miếng ăn sao “vĩ đại” đến thế!


Ngoài cái đói triền miên  hành hạ, tôi lại phải đối phó với muỗi. Khi bóng đen tràn tới cũng là  lúc từng đàn muỗi xuất hiện. Chiếc mùng cũ lúc mang theo, bây giờ cũng  rách mục như số phận làm người trong xã hội  “thiên đường” cộng sản.


Tôi ngậm ngùi thương con,  tôi lo cho sự an nguy của chồng, tôi lo cuộc sống lao đao vất vả của gia  đình, thấy nhớ ba mẹ và các em thơ dại của tôi, tôi tội nghiệp cho bà  mẹ chồng hiền lành và nỗi bất hạnh triền miên đè lên số phận bà. Dường  như giọt lệ lúc nào cũng lưng lưng trong khóe mắt, thế nhưng miệng tôi  thì lúc nào cũng phải nói những điều trái ngược. Tôi cảm thấy danh dự  xúc phạm.


Do thiếu thốn vật chất,  tinh thần hoang mang lo sợ cho tương lai mờ mịt tối tăm, và thương nhớ  người thân – tôi mỏi mòn và dần dần kiệt sức, con tôi thì còm cõi, yếu  ốm và những bệnh do thiếu dinh dưỡng, do môi trường dơ bẩn cùng một lúc  “hiệp đồng” tấn công trên cơ thể èo uột của tôi và của cháu. Lúc nầy thì  con tôi tóc bết dính và lầy lụa mủ máu vì bị sài lở, toàn thân cháu nổi  lên những mụn nhọt nhỏ li ti như muỗi đốt, móng tay như bị long và sứt  rớt ra.


Tôi lo quá, có lần tôi  đành gạt nước mắt chịu nhục, hạ mình xin thuốc cho cháu; nhưng bọn người  lòng thú ấy dửng dưng, lạnh lùng và dường như trong ánh mắt chúng có  đôi chút hả hê của lòng thù hận. Ôi đồng bào tôi đấy, ôi phẩm cách và  lòng khoan hồng “cách mạng!”. Sự tàn nhẫn kinh khiếp ấy của giống  “người” cộng sản làm ý chí tôi bỗng dưng  phát triển mãnh liệt. Tôi hối  hận về sự cầu cứu ấy và tự nhủ lòng sẽ không bao giờ cầu xin chúng, tôi  dấu nỗi uất hận, không để lộ niềm đau. Dù chưa biết phải làm gì, nhưng  tôi thấy tinh thần của lý sinh tồn và lòng tự trọng trong tôi vững vàng  lắm!


Sắp đến ngày 2 tháng 9,  ngày “quốc khánh” của chúng, một phái đoàn không biết từ đâu và cấp nào  đến thanh tra. Một người trong bọn họ thoáng dừng lại trước mẹ con tôi,  chúng phải bịt mũi vì mùi hôi từ chúng tôi. Có lẽ nhờ thế mà hôm sau,  ngày 30.8.76 mẹ con tôi được chúng thả ra về với ba năm quản chế.


Về đến nhà, toàn cả gia  đình tôi sống héo hắt, cùng cực vất vả, thiếu thốn, tôi đã hiểu tại sao  gần năm qua tôi không có thư từ tin tức gia đình và tôi lại khóc, lòng  tự trọng thúc đẩy tôi lao hết sức mình cho gia đình, cho đứa con muôn  ngàn yêu dấu. Cậu em trai kế tôi, có gia đình, còn ở Sài gòn cho tôi hay  rằng người mẹ chồng hiền lành của tôi đã chết! Tôi thương và mừng cho  bà đã thoát được cái thiên đường man rợ của lũ “vượn người cộng sản”.  Tôi nguyện cầu cho bà sớm được về cõi Phật  như lòng bà hằng mong ước.  Tôi xót xa cho chồng và mẹ chồng trong cuộc chia tay vĩnh viễn không  được gặp nhau, không được có mảnh khăn trắng ghi nhớ công ơn của mẹ  hiền, không được cầm tay đứa con trai út mà bà nuôi nhiều kỳ vọng. Bỗng  dưng tôi thở dài ngao ngán cho kiếp nhân sinh trong chế độ cộng sản.


Gần sáu năm sau kể từ ngày  tôi được thả ra lần thứ hai thì chồng tôi mới đuợc thả về. Giây phút  đầu tiên gặp lại nhau, tôi quá đỗi bất ngờ và cũng quá xúc động. Toàn  thân tôi điếng lặng. Tôi không nhúc nhích, cử động gì được, nhưng giọt  lệ cứ trào ra, lăn dài xuống đôi gò má thanh xuân nhưng đã sớm tàn phai  vì thống thiết đau buồn, thương nhớ.


Nhìn cảnh nhà sa sút nghèo  khổ và cũng vì có lần quá cơ cực tôi có ý định cùng với chồng con quyên  sinh, nên ngay hôm sau ngày sum vầy chồng tôi bắt tay ngay vào cuộc  sinh tồn. Dù cường quyền địa phuơng ngăn cản,  luôn tìm cách tạo bất an,  gây phiền nhiễu, khó khăn, anh vẫn quyết chí vùng lên từ làm thuê, vác  mướn, bán dạo… gia đình tôi lần hồi bước dần ra cảnh bần hàn. Nhưng tai  họa lại ập đến! Bởi lao nhọc, thiếu thốn và di hại trong lao tù, chồng  tôi ngã bịnh nặng. Bác sĩ cho biết một lá phổi anh bị khô nước, màng  phổi bị dày dính nên kéo và làm trái tim bị lệch và thòng xuống, có dấu  hiệu bị sạn thận, xơ gan. Bao nhiêu tiền bạc do công lao và tiện tặn  dành dụm được đành phải bỏ hết ra để giành mạng sống của anh. Khi đồng  bạc cuối cùng ra đi thì may thay, tôi gặp đuợc người chị cả của chồng  tôi, hai chị em thất lạc từ thuở anh chưa chào đời. Nhờ chị, chúng tôi  thoát nạn. Cũng kể từ đó, đời sống tinh thần và vật chất của chúng tôi  được an ủi, khuyến khích và nâng đỡ. Chị trở thành người mẹ thứ hai của  chồng tôi.


Bây giờ nhớ lại và kinh  rợn chuỗi ngày sống dưới ách bạo tàn khắc nghiệt cộng sản, lòng bùi ngùi  thương cảm cho những người còn trong nanh vuốt man rợ cộng sản. Xin  thành kính nghiêng mình trước những bậc anh hùng đã ngã xuống vì muốn  cứu nỗi bất hạnh của quê hương, xin được khóc những giòng lệ cho những  oan khuất tội tình của đồng bào tôi bị bàn tay máu của cộng sản áp bức  khống chế.


Xin cúi đầu tưởng niệm  hằng triệu chiến sĩ Quốc Gia, con yêu của Tổ Quốc Việt Nam đã không tiếc  máu xương vì sự an toàn và phát triển cho quê hương. Xin tưởng niệm 58  ngàn con yêu của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ vĩnh viễn nằm xuống trong cuộc  chiến đấu cho công lý và tự do trên quê huơng tôi.


Xin cám ơn lòng hào hiệp  của nhân dân và chính phủ Hoa Kỳ đã cứu vớt và đưa chúng tôi từ nơi tối  tăm bi thảm, nơi tầng cuối cùng của địa ngục trần gian đến vùng đất hứa,  nơi tuyệt đối tôn trọng nhân phẩm con người.


Xin cám ơn những ân nhân,  vì tình nhân ái, vì nghĩa Đồng Bào mà điển hình là bà Khúc Minh Thơ và  Hội Gia Đình Cựu Tù Nhân Chính Trị đã không bỏ rơi chúng tôi, đã không  quản ngại gian khó tốn kém cả tiền của lẫn thời gian và sức lực, đã ra  sức đánh động cho Thế Giới và nhất là Hoa Kỳ biết nỗi thống hận ngút  ngàn mà cộng sản trả thù bằng cách làm khô máu lên cuộc đời những chiến  sĩ Quốc Gia từng một thời dũng lược, nay đành thúc thủ.


Học theo Quý vị, chúng tôi  nhất định không bỏ quên những người đang cần đến chúng tôi. Chúng tôi  giữ gìn đạo lý và văn hóa Việt, chúng tôi nuôi dưỡng giáo dục các thế hệ  tiếp nối về lòng nhân bản để trở thành công dân hữu dụng cho xã hội và  cho sự tồn vong của Dân Tộc. Thiết nghĩ  đó là lời cảm ơn chân thành và  thiết thực nhất.


Việt Nam là Dân Tộc biết mang ơn và biết cách đền ơn. Đó là lời cuối cùng của giòng tâm sự hôm nay của chúng tôi.


Little Sài Gòn, ngày Truyền thống CSQG/VNCH

Cựu Thiếu-Úy CSQG LÊ THỊ XUÂN

bottom of page