top of page
Banner edge
DIỄN ĐÀN 3.png
DIỄN ĐÀN 2.png
DIỄN ĐÀN 1.png

DIỄN ĐÀN

TÂM TÌNH

TRẦN QUANG NAM (Cựu Giảng Sư HVCSQG)

Đầu   năm 1965, nhóm chúng tôi gồm 12 Quận Trưởng CSQG có tên dưới đây được   Tổng Nha CSQG đề cử theo học Giai đoạn I / Khóa 21 Trường Bộ Binh Thủ   Đức:


  • Trần Quan An

  • Phạm Công Bạch

  • Trần Minh Công

  • Phan Trung Chánh

  • Đinh Văn Cẩm

  • Nguyễn Thái Lợi

  • Đỗ Kiến Mười

  • Trần Quang Nam

  • Nguyễn Kim Phùng

  • Quách Văn Trung

  • Nguyễn Hữu Trương

  • Vũ Văn Tư


Thời  gian học khoảng 4  tháng rưỡi, chúng tôi ra trường vào giữa tháng 6 /  1965. Về trình diện  Tổng Nha, chúng tôi được ông Tổng Giám đốc lúc đó là  Đại Tá Nguyễn Ngọc  Loan chỉ thị về phục vụ tại Học Viện CSQG để huấn  luyện cho các bạn  trẻ sắp nhập trường. Vì trụ sở chính thức ở Thủ Đức  chưa xây cất xong  nên Học Viện còn đặt tạm trong Trại Lê Văn Duyệt thuộc  Biệt Khu Thủ Đô.  Ngoài hai anh Đỗ Kiến Mười và Nguyễn Thái Lợi ở lại  làm việc tại Khối  Đặc Biệt, số còn lại chúng tôi được phân nhiệm tại Học  Viện như sau:


  • Liên Đoàn Trưởng SV: Anh Trần Minh Công

  • Liên Đoàn Phó kiêm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn I: Anh Phạm Công Bạch

  • Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn II: Anh Trần Quan An

  • Chủ Sự Phòng Học Vụ: Anh Nguyễn Hữu Trương

  • Chủ Sự Phòng Tiếp Vận: Anh Vũ Văn Tư

  • Trưởng Đoàn Giảng Sư: Anh Phan Trung Chánh

  • Giảng Sư Đoàn gồm các anh Đinh Văn Cẩm, Trần Quang Nam, Nguyễn Kim Phùng và Quách Văn Trung.


Đầu  năm 1966, khóa sinh  Khóa I Học Viện CSQG đã lần lượt nhập học, nhưng vì  cần chờ văn kiện  chính thức thành lập nên mãi đến ngày 12 tháng 3 năm  1966 mới khai  giảng dưới sự chủ tọa của Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Chủ  Tịch Ủy Ban  Hành Pháp Trung Ương.


Khóa  I – HVCSQG có 448  SVSQ gồm 228 Thẩm Sát Viên (200 Nam & 28 Nữ) và  220 Biên Tập Viên  (200 Nam & 20 Nữ). Các SVSQ đã phải trải qua một  kỳ thi tuyển về  văn hóa và một cuộc khảo sát về nhân dáng đòi hỏi nam  khóa sinh phải  cao ráo, nữ khóa sinh phải xinh đẹp.


Lần  đầu tiên khi gặp các  SVSQ trong sân trại Lê Văn Duyệt, tôi nhớ tới hình  ảnh của tôi lúc mới  vào Ngành Cảnh Sát cũng đầy bỡ ngỡ và lo âu. Bỡ ngỡ  vì vào một ngành  hoàn toàn mới lạ, còn lo âu vì không biết tương lai sẽ  ra sao. Tôi tự  nhủ phải tiếp tay trong việc huấn luyện các bạn trẻ này,  phải nói với  họ những điều mà các bậc đàn anh đi trước đã khuyên tôi,  như:


  • Ngành Cảnh Sát là một ngành quyền rơm, vạ đá.

  • Khi có quyền đừng bao giờ sử dụng hết quyền.

  • Làm Cảnh Sát mà không biết thương yêu lẫn nhau thì đừng hy vọng người ngoài người ta thương yêu mình.


Nói về Học Viện CSQG là  phải nói tới vị Viện Trưởng đầu tiên, đó là Quận Trưởng Cảnh Sát Đàm  Trung Mộc. Ông là người đã góp nhiều công sức trong việc thành lập Học  Viện Cảnh Sát. Ông cũng là người có nhiều tài năng và đức độ, sự uyên  thâm về luật pháp. Nghệ thuật xử thế của ông đã được nhiều người nói  tới; nơi đây tôi chỉ xin trình bày một khía cạnh khác của ông, đó là đức  tính tìm tòi học hỏi và cẩn thận tỉ mỉ trong mọi việc ông đảm trách.  Ông thích sử dụng xe hơi nên đã mua sách nói về máy móc xe hơi để đọc.  Do đó, ông có thể đoán được bệnh xe và tự sửa được. Giảng  sư Nguyễn Kim  Phùng có kể cho tôi câu chuyện như sau: Hồi đó, anh có chiếc xe hơi  hiệu Corvair, khi lái cứ có tiếng khua lọc cọc ở đầu máy;  một hôm anh  lái xe vào Học Viện hỏi ý ông Viện Trưởng, ông nói anh mở nắp đầu máy  (hood) và nổ máy cho ông nghe. Một hồi sau ông chỉ cho anh một con ốc ở  đầu máy bị lỏng vì thiếu cái washer.

NHỮNG KỶ NIỆM VỚI HỌC VIỆN CẢNH SÁT QUỐC GIA

Một   Giảng sư khác, anh Nguyễn Bá Hàm thì nhớ lại chuyện: Hồi đó ông Viện   Trưởng có chiếc xe Opel hai màu xanh trắng, ông thường lái xe lên Thủ   Đức làm việc hàng ngày. Anh Hàm mỗi khi dạy học xong, được ngồi cùng xe   với ông để về Sài Gòn. Một hôm, có một nhân viên Học Viện xin quá  giang về Sàigòn, ông Viện Trưởng đồng ý cho quá giang nhưng yêu cầu  người nhân  viên đó phải ngồi ngay chính giữa ở băng ghế sau, vì cho  rằng ngổi như vậy xe mới cân bằng và lốp xe mới mòn đều.


Ông không thích việc các  sĩ quan quân đội biệt phái qua giữ các chức vụ cao cấp thuộc ngành Cảnh  Sát. Theo ông, các sĩ quan này tốt nghiệp các trường quân sự nên thiếu  am tường về Luật pháp. Ông cũng không thích việc thay đổi lon Cảnh Sát  qua lon Quân Đội vì hai ngành này khác nhau về quy chế và sắc phục: Lực  Lượng Cảnh Sát trực thuộc Phủ Thủ Tướng, còn Lực Lượng Quân Đội thuộc Bộ  Quốc Phòng.


Dù  không thích nhưng vì  chỉ là một giới chức thừa hành nên ông phải tuân theo mệnh lệnh của của  cấp trên. Có lẽ vì vậy mà ông đã bị đưa về Bộ Nội Vụ để “ngồi chơi xơi  nước”. Ông thường tự ví mình như cây “Danh Mộc” trong Cổ Học Tinh Hoa.


Phần tôi được phân bổ làm  Giảng sư phụ trách môn Hình Luật Đặc Biệt, môn học nói về các yếu tố cấu  thành tội danh. Để cho các khóa sinh dễ hiểu đề  tài, sau mỗi bài giảng  tôi thường kể chuyện về “Bao Công xử án” nên anh em đã đặt cho tôi biệt  danh là “Ông Bao Công”. Người đời đã có câu “Nhất Quỷ, nhì Ma, thứ ba  Học trò”, các khóa sinh K1 cũng vậy. Các bạn không chỉ đặt biệt danh cho  các bạn đồng khóa, mà còn đặt biệt danh cho các cấp chỉ huy của Học  Viện. Như ông LĐT Trần Minh Công thì các bạn đặt tên là “Ông Công Ngủ”,  ông Phạm Công Bạch là “Ông Bạch Lửa”, giảng sư Nguyễn Kim Phùng là “Thầy  Fidel Castro”,…Tới khi tôi lập gia đình thì có anh lại la lên: “Tụi bay  ơi! Ông Bao Công lấy vợ.”


Tôi lập gia đình cuối năm  1968, tuần trăng mật vợ chồng tôi lên Đà Lạt. Tại đây, tôi gặp hai bạn  cựu SVSQ Khóa I là anh Trương Công Cảnh và Đinh Công Huệ đang làm việc  tại Trung Tâm Huấn Luyện CSDC Đà Lạt. Ngày nghỉ  lễ, tôi được anh Đinh  Công Huệ cho mượn chiếc

NHỮNG KỶ NIỆM VỚI HỌC VIỆN CẢNH SÁT QUỐC GIA

xe  gắn máy để vợ chồng tôi cùng Trương Công Cảnh và người vợ tương lai  của anh lúc đó đang học ở Couvent des Oiseaux Đà Lạt có chiếc xe Honda  Dame cùng nhau đi chơi. Chúng tôi đi thăm và chụp hình các thắng cảnh ở  Đà Lạt. Đinh Công Huệ quê ở Bình Chánh/SG. Huệ có ba người anh, tôi chơi  với các anh của Huệ. Khoảng năm 1971, tôi đi công tác từ Phú Yên vào  Sàigòn, tôi có ghé thăm Huệ lúc đó đang làm Trưởng Cuộc Đồng Khánh dưới  quyền anh Trần Quan An, Trưởng Ty CSQG Quận 5. Đó cũng là lần chót tôi  gặp Huệ. Sau 1975, Huệ bị đi tù “cải tạo” và đã bị tử thương trong lúc đi lao động tại Hoàng Liên Sơn, Bắc Việt, để lại vợ và hai con.


Khóa  I-HVCSQG mãn khóa  ngày 14/12/1966, ngoài một số được phân phối về Tổng Nha và Nha Đô  Thành, còn đa phần các tân sĩ quan được bổ nhiệm về phục vụ tại các Ty  CSQG địa phương. Tại đây, các sĩ quan trẻ tuổi này đã phải  làm việc  dưới quyền các ông cò già mà học lực cũng như ngạch trật đều thua kém  họ. Do đó đã xảy ra tình trạng đố kỵ, chèn ép, ma cũ bắt nạt ma mới. Sở  dĩ có tình trạng này vì từ năm 1954, Ngành Cảnh Sát và Công An mới được  cơ quan an ninh Pháp chuyển giao cho Việt Nam; tới năm 1962,  Ngành Cảnh  Sát và Công An được hợp nhất và cải tổ thành Tổng Nha Cảnh  Sát Quốc  Gia. Tại thời điểm này, nhân số ngành Cảnh Sát còn nhiều hạn chế; các  giới chức cao cấp của ngành Cảnh Sát chỉ còn vài vị mang cấp bậc Quận  Trưởng Thượng hạng Ngoại hạng, còn phần lớn nhân viên thuộc các ngạch  trật Phó Thảm Sát Viên, Thẩm Sát Viên, Biên Tập Viên. Vì công việc giữ  gìn an ninh trật tự ngày càng nhiều nên các nhân viên này đã được đề cử  đảm nhiệm những chức vụ cao hơn với ngạch trật tương xứng của họ; như  Phó TSV giữ chức Trưởng Phòng hoặc Chủ Sự, TSV giữ chức Phó Ty hoặc  Trưởng Ty, BTV giữ chức Phó Giảm Đốc hoặc Giám Đốc Nha. Do đó, việc va  chạm giữa cũ mới, gi trẻ là điều khó tránh. Sự việc này cũng đã xảy ra  cho Khóa 14-BTV/Rạch Dừa là Khóa vào ngành Cảnh Sát trước Khóa I-HV   khoảng 3 năm. Một số anh em thuộc Khóa 14 BTV/RD bất mãn đã từ nhiệm  chuyển qua các ngành nghề khác như Quốc Gia Hành Chánh, Không Quân, Hải   Quân, Võ Bị Đà Lạt, SQ Thủ Đức, hoặc Lục Sự Tòa án,v.v… Riêng các bạn ở   lại đành tự an ủi ngâm câu: “Đã mang lấy nghiệp vào thân / Cũng đừng  trách lẫn trời gần, trời xa.”


Tình trạng này sau cũng  được cải thiện dần nhờ các cấp chỉ huy sáng suốt,  biết khả năng và lòng  nhiệt thành của tuổi trẻ nên đã ra chỉ thị: “Phải bổ nhiệm các sĩ quan  trẻ tuổi vào các chức vụ tương xứng với ngạch trật.”


Từ ngày qua định cư tại  Hoa Kỳ, tôi đã cùng một số các bạn cựu SVSQ Học Viện thành lập nên Hội  Ái Hữu CSQG Nam California. Hội đã ra mắt vào ngày 09 tháng 12 năm 1990  tại Quận Cam, Nam California. Các cựu SVSQ Học Viện đã sát cánh với tôi  hồi đó gồm quý anh: Nguyễn Ngọc Tuấn (K3),  Nguyễn Thanh Giàu (K3),  Nguyễn Tấn Dược (K1), Sơn Rotha (K10), v.v…


Sau này, khi thành lập  Tổng Hội CSQG vào ngày 27 tháng 5 năm 2000, tôi lại được nhiều sĩ quan  Học Viện hợp tác. Đó là Giảng sư Trần Quan An, và các  cựu SVSQ Phan Tấn  Ngưu, Nhữ Đình Toán, Phan Quang Nghiệp, Thái Văn Hòa, v.v…


Nhớ lại lúc mới thành lập Tổng Hội CSQG chỉ có 9 hội thành viên hoạt động tại Hoa Kỳ. Sau hơn mười  năm hoạt động, ngày nay số thành viên Tổng Hội  đã lên tới 18 Hội, hoạt  động bao gồm cả Âu Châu và Úc Châu. Từ Tổng Hội xuống tới các Hội địa  phương, các chức vụ Hội Trưởng đa số đều do các cựu SVSQ/HV đảm trách.  Điều đó chứng tỏ các cựu SVSQ/HV đã là nhân tố quan trọng trong các sinh  hoạt của Tổng Hội CSQG.


Cựu Đại tá Viện trưởng  Trần Minh Công rất hài lòng về các thành quả mà các sĩ quan Học Viện đã  đạt được. Ông cho biết, mỗi khi có dịp gặp các vị niên trưởng của Ngành  Cảnh Sát hoặc của các cơ quan đoàn thể bạn, các vị này thường khen ngợi  tinh thần đoàn kết và tích cực trong các sinh hoạt cộng đồng của các  chiến hữu Cảnh Sát mà nòng cốt là các bạn cựu SVSQ Học Viện. Ông hy vọng  tinh thần này sẽ mãi là kim chỉ nam của các sĩ quan Học Viện trong  tương lai.


Niên Trưởng cựu Viện  Trưởng cũng ngợi khen tinh thần đoàn kết và tương thân tương trợ của các  anh chị em cựu SVSQ Học Viện, đặc biệt là các bạn Khóa  6. K6 là Khóa  đầu tiên đã thiết lập được một website riêng để làm nơi liên lạc giữa  các anh em đồng khóa, nhờ vậy các bạn đã kịp thời có những chương trình  trợ giúp cho các bạn đồng khóa đang gặp khó khăn trong cuộc sống. (Được  biết, theo gương K6, đến nay nhiều Khóa HV khác như K1,  K2, K3,… đã  thiết lập những trang nhà riêng với cùng một mục đích như  K6).


Viết tới đây làm tôi nhớ  tới Thẩm phán Trần An Bài và những tình cảm của ông dành cho Khóa 6 -  HVCSQG. Ông là giảng sư thỉnh giảng được mời từ Bộ Tư Pháp/VNCH về giảng  dạy tại Học Viện CSQG. Ông dạy ở Học Viện từ Khóa 4 tới Khóa 12 (1969 –  1975). Ông cho rằng, một phần cuộc đời ông đã gắn liền với Học Viện  CSQG và hy vọng một ngày nào đó sẽ cùng anh em sĩ quan  Học Viện trở về  mái trường xưa trên đồi Tăng Nhơn Phú (Thủ Đức) để cùng  nhau xây dựng  một Lực Lượng Cảnh Sát tốt đẹp hơn cho một nước Việt Nam tự do, dân chủ,  không Cộng Sản. Tôi biết lòng thương mến của ông dành cho anh em Khóa 6  qua câu chuyện sau đây:


Năm 2006, cựu Thẩm Phán  Trần An Bài nhận lời mời qua Atlanta (Georgia) tham dự Ngày Truyền Thống  CSQG 1/6. Hồi đó, Hội Trưởng Hội Ái Hữu CSQG  Atlanta / Georgia là anh  Nguyễn Văn Nhì, cựu sĩ quan K1-Học Viện. Tôi biết ông Bài rất bận rộn  với công việc hàng ngày, nên hôm gặp anh Nhì, tôi có hỏi làm sao anh mời  được ông đi từ San Jose (Bắc CA) tới Atlanta.  Anh Nhì cho biết, thực  tình anh không quen biết ông Bài, nhưng anh biết ông rất thương mến anh  em Khóa 6-HV, nên anh đã nhờ một anh K6 ngỏ lời  mời ông Bài trước. Sau  khi ông Bài nhận lời, anh mới dám gởi Thư Mời  chính thức với tư cách  Hội Trưởng.


Ít lâu sau, có dịp ngồi  nói chuyện với ông Bài, tôi có hỏi ông về lý do  ông đã dành nhiều cảm  tình đặc biệt cho anh em Khóa 6 HV. Được ông cho  biết vì anh em Khóa 6  đã nghe và làm đúng lời ông khuyên nhủ. Tôi hỏi  ông đã khuyên gì họ,  ông cho biết, đã khuyên anh em Khóa 6, “Hãy đoàn  kết, thương yêu và  giúp đỡ lẫn nhau.”


Anh em Khóa 6 HV cũng đáp lại ông bằng lòng kính trọng, quý mến và coi ông như người anh cả trong gia đình…


Trở lại việc tôi làm việc ở  Học Viện CSQG. Trước đó, tôi từng làm việc dưới quyền Quận Trưởng Đàm  Trung Mộc từ cuối năm 1964, lúc đó ông đang là Giám Đốc Trung Tâm Huấn  Luyện Cảnh Sát Trung Cấp. Tháng 7 năm 1965, sau khi mãn khóa giai đoạn I  tại Trường Bộ Binh Thủ Đức, tôi cùng 11 Quận Trưởng khác được trở về  tiếp tục phục vụ dưới quyền QT Mộc tại Học Viện  CSQG. Trong số 12 Quận  Trưởng phục vụ tại Học Viện, tôi là người sau cùng rời Học Viện đi làm  Trưởng Ty Cảnh Sát vào cuối năm 1969, sau khi dạy xong Khóa 4 tại Học  Viện CSQG (khi đó đã dời lên Thủ Đức).


Học Viện CSQG là nơi đã  lưu lại cho tôi nhiều kỷ niệm, nhất là đối với Khóa I vì đó là Khóa đầu  tiên và duy nhất có nữ sinh viên sĩ quan. Khóa I có tổng cộng gần 500  SVSQ, trong đó có 48 nữ khóa sinh, gồm 28 TSV (có  bằng Tú Tài I) và 20  BTV (có Tú Tài II). Các nữ khóa sinh đã phải trải  qua một cuộc thi  tuyển về văn hóa và khảo xét về nhân dáng mà các vị  trong ban tuyển mộ  đã được chỉ thị phải tuyển chọn những cô gái có nhân dáng ưa nhìn. Đến  khi nhập học, những người đẹp này có lẽ vẫn chưa quên tính ưa chọc phá  thuở còn là học sinh “nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò” nên đôi khi đã  làm tôi lúng túng trong lúc giảng bài.


Tôi còn nhớ, lúc mới nhập  Học Viện, các khóa sinh nam nữ đều mặc đồ trận màu xanh olive. Sau đó,  các nữ khóa sinh đã có đồng phục trước với áo sơ mi trắng ngắn tay và  jupe màu xám ngắn tới đầu gối. Hàng tuần, vào ngày  thứ hai, các nữ khóa  sinh phải mặc đồng phục tới lớp. Hồi đó, tôi mới  27 tuổi, chưa lập gia  đình, đứng trên bục giảng cao nhìn xuống lớp học, ngay hàng ghế đầu nơi  các nữ khóa sinh ngồi với mấy chục cặp đùi của những người đẹp đã làm  tôi cảm thấy mất tự nhiên.

NHỮNG KỶ NIỆM VỚI HỌC VIỆN CẢNH SÁT QUỐC GIA

Khóa  I / HVCSQG có cả nam lẫn nữ. Các nam khóa sinh ăn ngủ nội trú trong  Trại Lê Văn Duyệt; còn nữ khóa sinh được trú ngụ tại Chi Vụ Huấn Luyện  Nha Đô Thành, cho nên, thỉnh thoảng, tôi phải qua Chi Vụ Huấn Luyện để  dạy môn Hình Luật cho các nữ khóa sinh. Sau mỗi giờ dạy thường có 10  phút nghỉ giải lao. Một hôm, sau giờ nghỉ, tôi trở lại lớp thì thấy trên  bàn Giảng sư có một ly nước lạnh. Tôi đang phân vân không biết ai để ly  nước thì bỗng từ dưới có một nữ khóa sinh đi đến bàn của tôi nói: “Xin   mời thầy dùng nước”. Tôi nhìn cô ấy và ngỏ lời cám ơn thì nghe phía  dưới  lớp có những tiếng cười khúc khích. Tôi biết là các cô ấy đã có ý  chọc  phá tôi. Ngay lúc đó, tôi không biết cô khóa sinh ấy tên gì, mãi  sau này tôi mới biết cô ấy tên là Phạm Thị Chích (hiện nay đang định cư ở  Canada có chồng là một cựu SVSQ/K2/HV).


Đó là những kỷ niệm êm đềm của tôi với Học Viện CSQG.


Ôn lại một chút lịch sử,  Việt Nam là một nước nhược tiểu đã bị các thế lực ngoại bang xô đẩy vào  cuộc chiến tương tàn, đưa đến việc đất nước bị chia cắt năm 1954. Miền  Nam thuộc thế giới tự do, đã lo canh tân và phát triển, mang lại nhiều  phúc lợi cho người dân. Việc thành lập Học Viện CSQG cũng nằm trong  chiều hướng tạo nguồn sinh khí mới, trẻ trung và  năng động cho Lực  Lượng CSQG trong việc giữ gìn an ninh trật tự ngày một  hoàn hảo.


Trong khi đó, cộng sản Bắc  Việt được sự yểm trợ của Trung Cộng và Liên Sô đã phát động cuộc chiến  vũ trang xâm lược, đưa đến việc cưỡng chiếm Miền Nam tháng Tư năm 1975.


Lưu vong tại xứ người, các  chiến hữu CSQG đã tìm về với nhau đứng chung dưới mái nhà Tổng Hội CSQG  để cùng nhau lo toan xây dựng thế hệ hậu duệ hầu tiếp nối ý chí cha  anh, sát cánh với các cơ quan, đoàn thể bạn, tranh đấu cho một nước Việt  Nam tự do, dân chủ, và phú cường. Đặc biệt hơn nữa, kỷ niệm 50 Năm Ngày  Thành Lập Học Viện CSQG (1966-2016), các  bạn cựu SVSQ từng tốt nghiệp  dưới mái trường này, đang tìm về với nhau vào giữa mùa hè này (ngày  17/7/2016) ở Little Saigon/Nam California, để cùng ôn lại những kỷ niệm  vui buồn của quá khứ và hiện tại, và để cùng nhau ước mơ cho một tương  lai tươi sáng của quê hương.


TRẦN QUANG NAM

(Cựu giảng sư HVCSQG)


bottom of page