top of page
Banner edge
DIỄN ĐÀN 3.png
DIỄN ĐÀN 2.png
DIỄN ĐÀN 1.png

DIỄN ĐÀN

TÂM TÌNH

Bài thuyết trình của NT TRẦN MINH CÔNG tại ĐH Berkeley 2016

Khi  viết về chiến tranh VN nhiều tác giả ngoại quốc thường chỉ nhắc tới vai  trò của quân đội Hoa Kỳ trong những trận chiến lớn, ít người nói đến  vai trò của QLVNCH và những công tác mà chính phủ VNCH thực hiện. Các  tài liệu về chiến tranh VN lại càng không lưu ý tới vấn đề an ninh công  cộng mà Cảnh Sát Quốc Gia Nam VN đảm nhiệm. Thực ra cuộc chiến VN không  phải chỉ là một cuộc chiến quân sự mà còn là cuộc chiến chính trị và ý  thức hệ, giữa Độc Tài CS và xây dựng Dân Chủ. Trong khi cuộc chiến đang  tiếp diễn thì Miền Nam vẫn cố gắng ổn định xã hội, phát triển kinh tế và  xây dựng dân chủ. Và hôm nay tôi muốn nói đến vai trò của Cảnh sát Quốc  Gia Việt Nam trong những lãnh vực quan trọng này mà nhiều sử gia về  cuộc chiến VN đã bỏ qua hoặc ít chú trọng tới.


Bài nói chuyện của tôi sẽ gồm 3 phần. Ở phần đầu tôi sẽ tình bày sơ  lược về lịch sử ngành Cảnh sát VN. Sau đó là phần Cảnh Sát VN đã được  huấn luyện và hoạt động như thế nào để đáp ứng 2 mục tiêu chính là bảo  vệ người dân và bảo đảm an ninh cho công cuộc phát triển kinh tế và xây  dựng một xã hội dân chủ trong thời chiến trước 1975. Và sau cùng là một  vài nhận xét của chúng tôi về vai trò của an ninh trong hai lãnh vực đó.


Sơ lược về Lịch Sử ngành Cảnh sát Quốc gia Việt Nam.


Trước hết nói về lịch sử và sự hình thành của Lực Lượng CSQG ta có  thể phân ra 3 giai đoạn chính: Giai đoạn đầu là CSQG dưới thời Pháp  thuộc trước 1954, Giai đoạn kế tiếp là CSQG khi được Pháp chuyển giao  cho chính phủ Nam VN và sau khi VN bị chia đôi bởi Hiệp Định Geneve và  Giai đoạn 3 khi CSQG đã được tổ chức và huấn luyện quy củ để đáp ứng nhu  cầu của Miền Nam VN trong thời chiến.


Ngành an ninh VN thực sự đã có mặt từ thời Pháp thuộc xa xưa. Vì VN  bị Pháp xâm chiếm và đô hộ trong gần 70 năm từ 1884 đến 1954 nên việc  cai trị và điều khiển ngành an ninh đều nằm trong tay người Pháp. Ngành  này được tổ chức lúc đầu theo một mô hình sơ lược của ngành hiến binh Pháp, nỗ lực chính là để kiểm soát dân Việt, bài trừ những thành phần  chống Pháp, thu thuế và kiểm soát dân buôn lậu. Đến năm 1946 chính quyền  Pháp lập ra Sở Liêm Phóng (Sureté Nationale or National Security  Service). Đây chính là tiền thân của Cảnh Sát VN. Sở Liêm phóng có các  Ty Công An ở một số thị trấn lớn và ở mỗi địa phương có một Ty Cảnh sát  thường gọi là bót cảnh sát. Các Ty CA và cảnh sát này hoạt động riêng  biệt. Công  an lo về an ninh chính trị, chủ yếu là theo dõi và bắt giam  những người chống đối chính quyền đô hộ của Pháp. Các Ty cảnh sát thì lo  giữ trật tự, truy tố tội phạm và bắt buôn lậu, nhất là bắt rượu lậu là  độc quyền của Pháp thời bấy giờ. Trong giai đoạn này các ngành công an  và cảnh sát đều được chỉ huy bởi các viên chức Pháp, điều khiển những  nhân viên VN dưới quyền. Tới năm 1948 khi chính phủ VN được coi là độc  lập (trong Liên Hiệp Pháp) thì hai ngành Công An và Cảnh Sát mới dược  chuyển giao cho VN và do người VN điều khiển. Đây chính là giai đoạn đầu  của Cảnh Sát VN.


Giai đọan 2 được khởi đầu vào năm 1950 khi chính phủ VN thành lập  một Nha Tổng Giám Đốc Công An và Cảnh  Sát trung ương để chỉ huy và phối  hợp các cơ quan riêng lẻ Cảnh Sát và Công An tại mỗi tỉnh. Ngày  20-7-1954 Hiệp định Geneve được ký kết chia đôi VN thành Bắc và Nam Việt  Nam. Miền Bắc theo chủ nghĩa Cộng Sản và Miền Nam theo chủ nghĩa Tự Do.  Tại Nam VN dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng Ngô Đình Diệm Cảnh Sát dần  dần được cải tổ và tái tổ chức thành một lực lượng thống nhất bao gồm  ngành Công An  lo về an ninh tình báo và Cảnh Sát lo về  an ninh trật tự  và thi hành luật pháp quốc gia. Hoa Kỳ qua chương trình viện trợ USAID  giúp tái tổ chức và xây dựng ngành CSQG VN. Các cố vấn từ trường đại học  Michigan được gửi qua giúp tổ chức quản tri,  tiếp liệu, truyền tin và  huấn luyện. Một số trung tâm Huấn luyện Cảnh Sát được xây dựng với viện  trợ Mỹ. Và từ đây ngành cảnh sát VN đã dần dần rời bỏ cách tổ chức của  công an Pháp và  chuyển qua ảnh hưởng ít nhiều cách tổ chức, điều hành  và huấn luyên của Cảnh sát Hoa kỳ.


Ngoài nhiệm vụ an ninh trật tự thông thường, năm 1961 Cảnh Sát VN  còn có thêm một cơ sở mới là Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo phụ trách  những vấn đề nội chính của Miền Nam VN. Tới năm 1962 hai ngành Công An  và Cảnh Sát được hợp nhất dưới danh xưng chung là Cảnh Sát Quốc Gia  (CSQG) và từ đây mỗi tỉnh chỉ có một Ty CSQG lo cả 2 mặt an ninh tình  báo, an ninh trật tự và thi hành luật pháp quốc gia.


Năm 1960 Băc Việt công khai phát động chiến tranh tại Miền Nam.  Để  đáp ứng với tình thế và nhu cầu bảo vệ an ninh Tổng Nha  Cảnh Sát thành  lập thêm một Lực Lượng Cảnh Sát Dã Chiến và một Lực Lượng Giang Cảnh vào  đầu năm 1965 để hỗ trợ các nhân viên công lực trong công tác bảo vệ an  ninh. Cũng thời gian này quân số cảnh sát đã dần dần gia tăng từ 22,000  lên 73,000, do đó nhu cầu đòi hỏi phải có thêm Sĩ Quan chỉ huy.


Chương trình Huấn Luyện Cảnh sát Quốc Gia.


Tháng 3-1966 một trường sĩ quan cảnh sát có tên là Học Viện CSQG  được thành lập, tuyển dụng các sinh viên Đại Học tham gia phục vụ ngành  Cảnh Sát. Chương trình huấn luyện tại Học Viện này là 1 năm. Sau khi tốt  nghiệp các sĩ quan này mang cấp bậc Biên Tập Viên và Thẩm Sát Viên. Sau  này đổi thành Đại Úy và Thiếu Úy cho phù hợp với các cấp bậc quân đội  khi ngành CS được quân sự hóa để phối hợp với quân đội trong nhu cầu  diệt cộng và bảo vệ an ninh diện địa.

VAI TRÒ CỦA AN NINH TRONG NỖ LỰC PHÁT TRIỄN DÂN CHỦ VÀ KINH TẾ TẠI NAM VIỆT NAM TRƯỚC 1975.

Từ sau cuộc tấn công Tết Mậu Thân 1968, CSQG đã biến đổi rất nhiều theo  nhu cầu. Từ những cơ quan chuyên lo việc giữ gìn an ninh trật tự và thi  hành luật pháp quốc gia, CSQG nay phải đối đầu với một cuộc chiến khác:  chiến tranh phá hoại và nổi dậy của Việt Cộng (VC). Nhiệm vụ của CS trờ  nên đa diện và phức tạp hơn. Tổ chức ngành CS cũng như chương trình  huấn luyện đo đó cũng phải thay đổi để đáp ứng nhu cầu thời cuộc.


Tổng Nha CSQG sau này được đổi thành Lực Lượng CSQG (theo quân đội)  và quân số được gia tăng nhanh chóng lên đến 130,000 người vào năm cuối  năm 1973. Cơ cấu tổ chức cũng được thay đổi. CSQG có thêm các ngành Cảnh  Sát Dã Chiến (CSDC_police field force), Cảnh Sát Giang Cảnh (harbor and  river patrol police), Thám sát Tỉnh (provincial reconessance teams).  Tại Trung Ương ngoài các Khối cơ hữu như: Khối Quản Trị lo về tuyển dụng  và quản trị nhân viên, Khối Tư Pháp giám sát việc thi hành luật pháp  quốc gia của các đơn vị CSQG toàn quốc, Khối Cảnh Sát Đặc biệt lo việc  theo dõi nội chính và hoạt động VC, nhất là các hoạt động nằm vùng của  VC trong dân chúng, Khối Huấn Luyện lo huấn luyện nhân viên các cấp đáp  ứng nhu cầu của tình thế, Khối Tiếp Vận lo cung ứng nhu cầu phương tiện  cho các cơ sở cảnh sát toàn quốc. Ngoài các bộ phận chính đó còn có thêm  Khối Hành Quân, lo phối hợp hành quân tại các Nha CSQG Vùng và phối hợp  tổng quát giữa CSQG và các đơn vị quân đội. Khối Truyền Tin, Khối Yểm  Trợ gồm có CSDC và Giang Cảnh lo điều hành các Đại Đội CSDC và các Giang  đoàn yểm trợ cho cảnh sát địa phương trong công tác an ninh và tiệu  diệt hạ tầng cơ sở VC, Trung Tâm Bình Định và Phát Triển lo phối hợp với  các đơn vị quân đội trong chương trình Phụng Hoàng và phát triển nông  thôn.


Về phương diện chỉ huy quân sự, lãnh thổ Miền Nam VN được chia thành  4 quân khu và một Biệt Khu Thủ Đô. Để việc phối hợp đươc thuận tiện,  CSQG cũng chia ra thành 4 vùng , mỗi vùng gồm nhiều tỉnh trực thuộc.Chỉ  huy trưởng CSQG Vùng (regional police commander) thường mang cấp Đại Tá  và các Chỉ Huy Trưởng Tỉnh (Province or City police chief) thường mang  cấp Trung Tá hoặc Thếu Tá.  Tại mỗi tỉnh có nhiếu quận và mỗi quận có  nhiều xã (trước kia gọi là làng). Tới cuối năm 1975 VNCH có 44 tỉnh, 10  thị xã, 247 quận và  trên 10,000 xã (10944 vào năm 1973). Khác với các  đơn vị quận đội thường không có vị trí cố định lâu dài, CSQG phải có mặt  và làm công tác bảo vệ an ninh tại tất cả các xã ấp dưới quyền kiểm  soát của phía quốc gia kể cả những xã thuộc vùng xôi đậu. Nhiệm vụ bảo  vệ diện địa do đó là trách nhiệm rất nặng nề của CSQG nhất là kể từ năm  1960-1975.


Vì  ngoài nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự và thi hành luật pháp quốc gia,  CSQG-VNCH còn phải đối đầu với một cuộc chiến tranh nổi dậy (an  undeclared insurgency) do Bắc Việt khởi động nên hoạt động của CSQG-VN  cũng trở nên đa dạng và phức tạp hơn và do đó đã trở thành một lực lương  bán quân sư. Đây chính là điểm khác biệt giữa CSQG VN và các lực lượng  Cảnh Sát  khác trên thế giới. Nhiệm vụ vừa dân sự vừa quân sự đã khiến  CSQG VN có cơ cấu tổ chức bán quân sự và chương trình huấn luyện Cảnh  Sát cũng thêm phần quân sự để có thể thi hành công tác theo nhu cầu quốc  gia và theo tình thế đòi hỏi.


Cũng như các tổ chức và hoạt động của nhiều quốc gia khác, CSQG-VN  cũng phải tuần tiễu mỗi ngày để giữ an ninh trật tự, truy lùng và ngăn  chặn phạm pháp, truy tố ra tòa án các vi phạm và tội phạm. Ngoài ra  CSQG-VN còn phải tổ chức tình báo trong các khu vực và thôn xóm để sớm  phát hiện các âm mưu phá hoại của VC như tuyên truyền, đặt chât nổ, ám  sát, đe dọa dân chúng. Chính vì vậy mà Cảnh Sát có chương trình xét thẻ  căn cước và khám sổ gia đình luân phiên mỗi đêm để phát hiện những người  lạ có thể là VC xâm nhập phá hoại. Các hoạt động có tính cách thời  chiến này đã đòi hỏi ngành CSQG phải có những chương trình huấn luyện  thích hơp với hoàn cảnh chiến tranh để vừa bảo vệ an ninh cho dân chúng,  vừa bảo đảm cho công cuộc phát triển kinh tế và xây dựng dân chủ được  thực hiện song song với các nỗ lực chiến tranh tự vệ của VNCH..


Nói chung chương trình huấn luyện của CSQG-VN ngoài  các phần hành  chuyên môn còn phải có thêm phần quân sự.  Đối với cấp hạ sĩ quan và  nhân viên chương trình huấn luyện thường từ 4 đến 5 tháng. Có một Trung  Tâm Huấn lLuyện Căn Bản tại mỗi quân khu (trên toàn lãnh thổ VN có 4  Quân Khu). Chương trình huấn luyện căn bản chú trọng vào phần  luật pháp  căn bản, tuần tiễu an ninh và điều tra tội phạm. Sau một thời gian phục  vụ, các nhân viên cảnh sát này có thể được gửi đi học thêm các khóa  chuyên môn khác như điều tra tư pháp, truyền tin, tiếp liệu, tình báo...


Kể từ 1965 chương trình huấn luyện một Sĩ quan cảnh sát là một năm,  bao gồm 1/3 thời lượng là huấn luyện quân sự, 2/3 là huấn luyện chuyên  môn. Phần huấn luyện quân sự được tổ chức với sự hỗ trợ của một quân  trường là Trường Bộ Binh Thủ Đức. Chương trình quân sự nhằm đào tạo cho  các sinh viên có đủ kiến thức và khả năng chỉ huy một Trung Đội về mặt  quân sự. Kiến thức quân sự này rất cần thiết vì họ sẽ phải thường xuyên  tổ chức hành quân cảnh sát hoặc hành quân phối hợp với các đơn vị quân  đội , nhất là tại các vùng nông thôn. Tại các đơn vị mà họ chỉ huy sau  này họ cũng thường xuyên bị VC tấn công và do đó phải có khả năng quân  sự để đối phó. Việc sử dụng vũ khí và mìn bẫy là việc họ không thể  thiếu, vừa để bảo vệ đơn vị cảnh sát mà họ chỉ huy, vừa để bảo vệ đồng  bào trước những quấy phá và tấn công của VC.


Ngoài phần huấn luyện quân sự và các môn khác như điều tra tư pháp,  quản trị, tổ chức, lãnh đạo chỉ huy ...chương trình huấn luyện về  luật  pháp được coi là quan trọng nhất. Có thể nói một nửa chương trình huấn  luyện Sĩ Quan cảnh sát là trong lãnh vực này. Các môn Hình luật và Hình  sự tố tụng được coi là nồng cốt  trong nhiệm vụ của người Sĩ Quan Cảnh  Sát thi hành luật pháp quốc gia. Luật pháp quốc gia không phải chỉ dành  cho những công dân mà còn phải được chính những người Cảnh Sát thi hành  luật pháp quốc gia tuân thủ. Ý niệm pháp trị (Rule of Law) luôn luôn  phải được đề cao để có sự công bằng và giữ được niềm tin của người dân.  Một xứ đang có chiến tranh nổi dậy như ở VN buộc người Cảnh Sát phải làm  sao vừa có thể áp dụng những biện pháp kiểm soát chặt chẽ dân chúng  trong nỗ lực chống Cộng Sản xâm nhập, lại vừa phải tôn trọng tự do của  dân chúng như luật pháp ấn định và cho phép. Những công tác kiểm soát  người dân rất dễ đưa đến những lạm dụng quyền hành và vi phạm nguyên tắc  pháp trị (the rule of law). Việc truy lùng, bắt bớ thẩm vấn và truy tố  tội phạm VC rất dễ gây ra những sơ sót luật pháp này. Vì những ràng buộc  của luật pháp như chỉ được tạm giam nghi can tối đa 72 giờ để điều tra  sau đó phải trình Biện Lý, không được đe dọa hoặc tra tấn nghi can… đã  phần nào làm họ bị bó tay trong công tác điều tra và truy tố tội phạm,  nhất là các nghi can hoạt động cho Việt Cộng. Làm sao để có thể vừa  chống Việt Cộng xâm nhập trong dân chúng vừa không vi phạm luật pháp và  các thủ tục luật định. Điều này không dễ dàng trong hoàn cảnh chiến  tranh VN.  Nhưng tôn trọng những quy định của luật pháp vẫn phải là ưu  tiên hàng đầu của mọi nhân viên cảnh sát.  Hãy thử so sánh một vài vụ  Cảnh Sát Hoa Kỳ bắn nghi phạm da đen ở Missouri và Baltimore gần đây để  thấy những khó khăn mà người Cảnh Sát VN gặp phải mỗi ngày tại VN trước 1975.


Các ngành huấn luyện khác như CSDC chuyên về hành quân quân sự để  tiêu diệt hạ tầng cơ sở VC hỗ trợ cho các đơn vị CS địa phương hay hành  quân giang cảnh tuần tiễu trên sông ngòi để phát hiện Cộng Sản xâm nhập  bằng đường thủy hoặc các tội ác buôn lậu hoặc tiếp tế cho VC, cũng là  những môn huấn luyện đặc biệt cho cả nhân viên và cấp Sĩ Quan. Những  công tác này nằm trong trách nhiệm kiểm soát tài nguyên để cắt đứt việc  tiếp tế cho VC trong các mật khu đồng thời nhằm phát hiện việc chuyên  chở cho VC những mìn bẫy, vũ khí, chất nổ và các phương tiện chiến tranh  khác. Việc lục soát, tịch thu và tạm giữ những thành phần nghi ngờ vẫn  phải tuân theo luật pháp (rule of law) cũng là một khó khăn cho người  thi hành công vụ. VC đã từng xuyên tạc và cáo vuộc CSQG về những sai  phạm loại này.


Ngoài phần huấn luyện chuyên môn như vừa kể trên, phần huấn luyện  của CSQG còn nhấn mạnh về Chiến Tranh Chính Trị: làm sao để thu phục  nhân tâm (winning hearts and minds) nhất là tại những vùng nông thôn.  Trong một cuộc chiến tranh nổi dậy (insurgency) việc thu phục lòng dân  là cốt yếu. VC dùng tuyên tryền lừa bịp và cả đe dọa để ép dân về với  họ. Phía quốc gia chúng tôi chỉ có thể giải thích, thông tin trung thực  và phục vụ để kéo người dân về với mình.  Những việc làm thất nhân tâm  được coi là phản lại đường lối quốc gia. Việc Cảnh Sát phải chặn người  và xe cộ lại để khám xét, việc khám sổ gia đình ban đêm, việc chống biểu  tình bãi thị do VC giật dây... là những việc làm đễ ngây ngộ nhận nơi  người dân và thường bị các cơ quan truyền thông, nhất là các cơ quan  truyền thông Tây phương lên án   là  vi phạm nhân quyền và quyền tư do  của người dân. Các công tác khó khăn đó đòi hỏi một sự phán đoán tế nhị  của người thi hành và chắn chắn là không tránh khỏi những xuyên tạc của  đối phương VC. Một chương trình huấn luyện kỹ lưỡng sẽ giúp  nhân viên  Cảnh Sát có những quyết định hành xử đúng cách để giảm thiểu các xuyên  tạc của đối phương.


Tình hình an ninh tổng quát từ 1965-1975.


Tình hình an ninh nói chung tương đối ổn định từ 1954-1963.  Xin  nhắc lại là Cộng Sản Hà Nội chỉ công khai phát động chiến tranh tại Nam  VN kể từ 1960 nên trong 6 năm (1954-1960) Miền Nam đã có cơ hội tương  đối ổn định để tổ chức xã hội và xây dựng nền móng cho công cuộc phát  triển kinh tế nhờ những ngân khoản viện trợ dồi dào của Hoa kỳ. Tình  hình an ninh có được trong giai đoạn này cũng nhờ vào việc tái tổ chức  ngành Cảnh sát  non trẻ của Miền Nam và đặc biệt là hiệu năng ngày một  tăng tiến của ngành Cảnh Sát Đặc Biệt luôn theo dõi và phát hiện những  phần tử VC hoặc thân cộng trong dân chúng. Nên nhớ là sau Hiệp Định  Geneve 1954 chia đôi đất nước, CSVN đã để lại Miền Nam VN nhiều cán bộ  của chúng. Số cán bộ cộng sản tập kết ra Bắc theo các điều khoản của  hiệp đinh Geneve đã để lại gia đình họ. Hầu hết những gia đình này sau  đó trở thành những cơ sở tiếp tế và liên lạc của VC khi những người tập  kết này và những cán bộ VC khác được Bắc Việt gửi trở lại hoạt động  trong Nam. Vì vậy sau khi Bắc Việt cho thành lập Mặt Trận Dân Tộc Giải  Phóng Miền Nam (một tổ chức trá hình của VC và do VC điều khiển, sau khi  chiếm trọn miền Nam vào năm 1975 vì không còn cần thiết sử dụng nên VC  đã giải tán tổ chức này) VC đã gia tăng xâm nhập người và vũ khí vào  Miền Nam và các hoạt động tuyển mộ của họ cũng gia tăng. Kể từ năm 1960  họ đã gia tăng tuyên truyền, đe dọa và ra mặt tổ chức khủng bố tại một  số vùng nông thôn. Các vụ đặt chất nổ và đắp mô dể cản trở lưu thông  trên các trục lộ giao thông chính giữa các tỉnh đã xẩy ra thường xuyên  hơn.


Đến năm 1965 thì VC đã đưa nhiều đơn vị võ trang xâm nhập miền Nam  và tình hình chiến sự đã trở nên sôi động hơn. Nhiều trận đánh đã công  khai diễn ra trên toàn lãnh thổ VNCH. Kể từ giữa năm 1965 khi các đơn vị  quân đội Hoa Kỳ (HK) được đưa vào VN để hỗ trợ QLVNCH thì chiến dịch  khủng bố của VC cũng gia tăng, phần lớn nhắm vào các nhân viên và cơ sở  HK. (Vụ nổ tòa Đại Sứ-HK tại dường Hàm Nghi, vụ nổ tại cư xá Brink, vụ  nổ nhà hàng Mỹ Cảnh ngay tại thủ đô Saigon,....) nhằm mục đích tuyên  truyền trong dân chúng, nhất là đối với dư luận quốc tế và Hoa Kỳ. Ở đây  chúng ta cũng phải nhắc tới một điều là hình ảnh của các quân nhân Mỹ  lúc đầu có vẻ phản cảm đối với người dân VN vì nó nhắc nhở tới hình ảnh  của những người lính thực dân Pháp thời Pháp thuộc hơn nửa thế kỷ mà dân  tộc VN đã phải trải qua. Người Pháp đã đến cai trị VN như những kẻ  chiếm đóng và trong con mắt người dân thường VN hình ảnh những người  lính Tây phương như HK cũng không khác gì những người Pháp đã từng cai  trị và bóc lột họ. VC lợi dụng kinh nghiệm này để khơi dậy tinh thần bài  ngoại, nói đúng ra là bài Mỹ. Những hành động khủng bố nhắm vào người  HK vừa nhắm ảnh hưởng dư luận với thế giới vừa nhắm mục đích tuyên tryền  lôi kéo người dân về phía họ (VC). Các hoạt động tình báo và phòng ngừa  chống khủng bố của cảnh sát vì vậy phải gia tăng. Bộ phận CSĐB phải  phân loại dân chúng. Tổ chức an ninh chìm tại các phường khóm, theo dõi  những đầu mối khả nghi và tổ chức xâm nhập ngay vào hàng ngũ VC. Điều  này tạo thêm gánh nặng nhân sự và tài chánh cho ngành Cảnh Sát vốn đang  cần nhiều tài nguyên để phát triển theo với đà gia tăng của chiến tranh.


Vào những năm tiếp theo CSQG không phải chỉ lo ngăn chặn những vụ  khủng bố nhắm vào ngưởi Mỹ mà cả những vụ khủng bố và đe dọa tinh thần  nhắm vào người dân bình thường, nhất là vào những người dân ở những vùng  nông thôn xa xôi . Với trên dưới 10,000 xã của 44 tỉnh việc bảo vệ an  ninh chống VC xâm nhập 24/24 rất phức tạp và khó khăn, đòi hỏi một quân  số khá đông. Vì vậy an ninh tại nông thôn cũng là một bài toán nhức đầu  khác cho CSQG.


Ngoài những vụ khủng bố vừa kể, VC còn gia tăng những hoạt động phá  rối trị an khác như xúi dục biểu tình gây khó khăn cho chính phủ. Xin  được nhắc lại ở đây là sau khi đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm vào  năm 1963, quân đội lên cầm quyền đã gặp sự chống đối của rất nhiều thành  phần đối lập, và của một số tôn giáo, đặc biệt là từ một giáo phái Phật  giáo được coi là nồng cốt trong cuộc đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm  của Đệ Nhất Cộng Hòa. Những sự chống đối này bề ngoài có vẻ hoàn toàn  chính đáng như dòi hỏi dân chủ, đòi bầu cử quốc hội Lập Hiến, đòi công  bố một tân Hiến pháp dân chủ...nhưng thực ra thì phần nhiều là do những  âm mưu và tham vọng chính trị của một số phe nhóm. Nhiều cuộc biểu tình  chống chính phủ được phát động quy mô. Có thể nói là sau cuộc đảo chánh  1963 biểu tình xuống đường thường xuyên xẩy ra tại một số khá nhiều Thị  Xã và thành phố lớn, nhất là tại thủ đô Saigon. Những đòi hỏi nhiều khi  chính đáng, nhiều khi rất mơ hồ. Cảnh Sát lại phải tốn công sức đối đầu  với những xáo trộn này. Đàn áp một cuộc biểu tình không phải là một công  tác khó khăn. Khó khăn chính là làm sao để duy trì được trật tự mà nhân  viên Cảnh Sát vẫn không vi phạm vào những nguyên tắc luật định (rule of  law) để người dân không bị tước đi quyền tự do phát biểu của mình.  Trong rât nhiều trường hợp nhân viên Cảnh Sát đã bị người biểu tình đả  thương nhưng vẫn phải chịu đựng vì không thể hành động ngoài luật pháp.  (Ở đây chúng tôi xin mở ngoặc để so sánh cách hành xử của người Cảnh  Sát-VNCH trước 1975 và Công An CSVN ngày nay đàn áp dã man những người  chống đối bất công trong những vụ cướp đất của nhà nước VN. Điều khác  biệt này dễ hiểu vì Cảnh Sát VNCH hành xử theo luật pháp của một xã hội  dân chủ và pháp trị (rule of law), chỉ được làm những gí mà luật pháp  cho phép. Trong khi đó thì người Công An Cộng Sản dùng mọi cách để bảo  vệ Đảng và họ làm tất cả những gí mà Đảng cho phép dù trái với những quy  định do chính hiến pháp của họ đề ra.)


Một vài biến cố quan trọng và vài chương trình có sự tham dự đặc biệt của Cảnh sát Quốc Gia.


* Vụ Biến Động Miền Trung năm 1966.


Trở lại với tình hình nội chính của VNCH, vào năm 1966 một vụ biến  động lớn đã xẩy ra tại Miền Trung VN do một phe của Phật Giáo VN khởi  xướng, được lãnh đạo bởi Thương tọa Thích Trí Quang người đã từng chủ  động trong cuộc lật đổ Tổng Thống hợp pháp Ngô Đình Diệm của VNCH vào  năm 1963 và  là người được tuần báo Times thời đó đăng hình trên trang  bìa với lời ghi chú "người làm rúng động nước MỸ".  Lý cớ (excuse) của  việc biểu tình bãi thị của TT. Trí Quang và khối Phật Gíao Ấn Quang tại  hai thị xã lớn nhất của Miền Trung là  Huế và Đà Nẵng là để phản đối  quyết định của Chính Phủ trung ương thay thế Tướng Nguyễn Chánh Thi lúc  bấy giờ đang là Tư Lệnh Vùng I, đồng thời đòi hỏi chính phủ mới thành  lập do Tướng Nguyễn Cao Kỳ làm Thủ Tướng phải lập tức bầu cử một Quốc  Hôi Lập Hiến để soạn thảo một Hiến Pháp mới thay thế hiến pháp trước do  TT. Ngô Đình Diệm ban hành từ tháng 10-1956.


Lý do đòi hỏi một Quốc Hội mới và một Hiến Pháp mới có vẻ hợp lý nên  dân chúng dễ dàng bị lôi cuốn vào những cuộc biểu tình, đôi khi rất bạo  động.  Nhưng bên trong còn có những động cơ khác mà người dân không  quan tâm chính trị khó biết được. Đó là gây áp lực với chính phủ để đòi  hỏi chia sẻ quyền lực cho phe Ấn Quang (hồi ký Nguyễn Cao Kỳ). Phong  trào phản kháng và biểu tình đã lôi kéo được sinh viên là những người  đầy lý tưởng và nhiệt huyết tham gia. Trong nhiều tháng, hai Thị Xã này  gần như tê liệt vì những cuộc biểu tình, đình công bãi thị. Phòng thông  tin và Lãnh Sự quán HK bị đốt phá. Chính quyền tại hai thị xã và cả các  cơ quan cảnh sát tại hai nơi này gần như bó tay vì muốn tránh đổ máu.  Việt Cộng dĩ nhiên lợi dụng thời cơ này ngay từ đầu. Họ gài cán bộ vào  đầu não phong trào chống đối dể thao túng tình trạng hỗn loạn (xem Biến  Động Miền Trungcủa Liên Thành ). Khi tình hình bạo loạn dâng cao và khi  âm mưu biến Miền Trung thành một vùng tự trị theo ý đồ của VC bị lộ  liễu, chính quyền trung ương không còn lựa chọn nào khác phải dùng quân  đội và CSDC từ Saigon ra Đà Nẵng rồi sau đó là Huế để dẹp loạn. Trong  việc tái lập an ninh tại Đà nẵng tổn thất nhân mạng cho đôi bên hơn 100  người.


Sau nhiều tháng xáo trộn , an ninh trật tự tại hai thị xã Đà Nẵng và  Huế tuy được vãn hồi nhưng cảnh sát vẫn phải đối đầu với những cuộc  biểu tình và phản đối của một số chùa chiền và phật tử 6 tháng liên tiếp  sau đó. Điều này đã khiến cảnh sát phải sử dụng số tài nguyên hữu hạn  vào một mục tiêu hoàn toàn có tính cách chính trị và do VC giật giây,  lấy đi những phương tiện mà cảnh sát đáng lẽ có thể dành cho các nhiệm  vụ khác như giúp dân chúng phát triển đời sống trong ổn định và bảo vệ  các chương trình bình định và phát triển nông thôn, trong đó có nhiệm vụ  bảo vệ an ninh cho các chương trình phát triển kinh tế quốc gia.


Một điều cũng nên nêu ra ở đây là việc bắt giữ, điếu tra và truy tố  những kẻ phá rối trị an như trong vụ biến động Miền Trung này nằm ở lằn  ranh rất mờ nhạt giữa  vi phạm luật pháp quốc gia và quyền hoạt động  chính trị. Vì tôn trọng pháp trị nên trong rất nhiều trường hợp cảnh sát  phải bó tay. Và cũng chính vì vậy mà những kẻ gây náo loạn vẫn nhởn nhơ  gây khó khăn cho việc trị an. Đây là một khó khăn mà có lẽ ít cơ quan  cảnh sát tại các xứ khác gặp phải.


VNCH thì khác, vừa phải tìm sự ổn định lâu dài để xây dựng xã hội và  phát triển kinh tế lại vừa phải đối đầu với những thách thức mà một  cuộc chiến tranh nổi dậy mang đến. Trong cuộc chiến ấy, kẻ thù VC lợi  dụng mọi cơ hội để phá hoại và gây cản trở cho công cuộc ổn đinh và phát  triển Miền Nam.  Việc duy trì an ninh và tôn trong dân chủ trong một  chế độ pháp trị quả không dễ thực hành. Nhưng đó lại là trách nhiệm hàng  đầu đè nặng trên vai người Cảnh Sát VNCH trong suốt 20 năm chiến tranh  1955-1975.


* Biến cố Tết Mậu Thân 1968.


Một biến cố nổi bật khác khiến cả người dân VN lẫn Hoa Kỳ ngỡ ngàng  và khó quên. Đó là trận tấn công Tết Mậu Thân 1968. Đây là một trận  chiến vừa có tính cách quân sự vừa có tính cách chính trị. Quân sự vì VC  muốn chủ động xúi dục dân chúng Miền Nam nổi dậy trong sách lược tiến  chiếm Miền Nam của chúng. Chính trị vì VC muốn thế giới và nhất là nhân  dân HK thấy rằng họ thực sự làm chủ tình hình trên chiến trường và ngay  tại các đô thị lớn của VNCH kể cả thủ đô Saigon.  VC muốn nhân dân HK  thấy rằng quân đội HK không thể chiến thắng họ và kéo dài chuộc chiến  chỉ là một nỗ lực tuyệt vọng tiêu hao nhân sự và tài nguyên của HK. Đây  là một trận chiến tuyên truyền và cân não nhắm vào dư luận HK và thế  giới hơn là nhắm vào người dân VN.


Tôi nhắc lại trận chiến này ở đây vì nó trực tiếp liên hệ đến Cảnh  sát VNCH vào thời điểm đó. Diễn tiến sự việc đại khái như sau: Một thỏa  hiệp ngưng bắn trong ba ngày Tết âm lịch giữa hai bên (VC và VNCH)  được  ký kết để người dân VN và binh lính hai bên có thể bình yên hưỏng 3  ngày Tết truyền thống. Đối với dân VN những ngày này được coi là rất  linh thiêng. Là dịp để gia tộc xum họp đón vong linh tổ tiên về với con  cháu. Vì có ngưng bắn, hầu hết các đơn vị quân đội đã cho phép 50% binh  sĩ xả trại về với gia đình. Nhưng vốn tráo trở, VC đã bất ngờ đồng loạt  tấn công vào tất cả các thành phố Mièn Nam bất chấp điều mà họ đã ký  kêt. Chúng lựa chọn những mục tiêu nổi bật và dễ gây hoang mang giao  động để tấn công. Tại Saigon chúng cho đặc công tấn công vào Phủ Tổng  Thống, Tòa Đại Sứ HK, đài Phát Thanh , Bộ Tổng Tham Mưu và một số địa  điểm quan trọng khác. Chúng đặc biệt nhắm vào những khu đông dân cư và  những xóm nghèo lao động với tin tưởng rằng chúng có thể khích động dân  chúng tại các nơi này cùng nổi dậy lật đổ chính quyền hợp pháp VNCH. Vì  số binh sĩ còn lại tại nhiệm sở rất ít nên khi VC bất ngờ tấn công phía  VNCH có phần bối rối dù binh sĩ phòng thủ cố gắng chống trả.


Chỉ riêng CSQG vẫn phải đề phòng nên lệnh cắm trại 100% vẫn được duy  trì.  Chính nhờ yếu tố cẩn thận và luôn đề phòng mọi bất trắc này mà  CSQG đã đã phản ứng kịp và trở thành tuyến đầu chống trả cuộc tấn công  của VC tại các đô tỉnh thi. Tình trạng trong mấy giờ đầu là tại Dinh Độc  Lập VC đã áp đảo được quân số phòng thủ, vượt qua được một cổng phụ  trên đường Nguyễn Du và đã đưa được một xe hơi chứa vài trăm bánh thuốc  nổ vào sân dinh Độc Lập. Chỉ tới khi lực lượng Cảnh sát  phản ứng cấp  thời mới đẩy lui được nhóm đặc công VC ra khỏi vòng đai dinh ĐL và tiêu  diệt chúng một ngày sau đó.


Tại Tòa Đại sứ  HK Việt Cộng dùng chất nổ và đặc công tấn công qua  tường rào. Chúng đã lên tới  lầu 2 của building nhưng sau đó đã bị binh  sĩ và quân cảnh HK đẩy lui. Tại Đài phát thanh quốc gia, VC cố gắng  chiếm để phát thanh lời kêu gọi tổng nổi dậy. Tại đây chúng đã bị toán  Cảnh Sát Dã Chiến phòng thủ đài đẩy lui. Tại Bộ Tổng Tham Mưu và một số  địa điểm khác VC tấn công mạnh lúc đầu nhưng sau đó chúng cũng đã thất  bại và phải rút lui hoặc bị tiêu diệt.


Đây là một trận tấn công bất ngờ đối với quân dân Miền Nam. Với yếu  tố bất ngờ đó, lẽ ra VC đã có nhiều ưu thế để thắng. Nhưng chúng đã thất  bại, không chiếm giữ được lâu những vị trí quan trọng, và cũng không  phát động được cuộc tổng nổi dậy của dân chúng mà chúng dự trù. Trong  trận chiến Mậu Thân này tuy thực sự thất bại về mặt quân sự và chính trị  tại VN nhưng VC đã đạt được thắng lợi tuyên truyền trên thế giới và đặc  biệt tại HK nhờ các cơ quan tuyền thông quốc tế đã tường thuật một cách  không đầy đủ kết quả chung cuộc của trận chiến này đưa đến những nhận  định tiêu cực về khả năng tham gia cuộc chiến của quân đội HK tại VN.  Chính giới và nhân dân HK hoang mang và đòi xét lại hiệu quả của việc KH  tham chiến tại VN. Đây cũng là bước ngoặt quan trọng trong chính sách  HK đưa đến quyết định HK rút khỏi VN bằng Hiệp Định Paris năm 1973, bỏ  mặc quân đội và nhân dân VN phải một mình chống trả lại quân xâm lăng  Bắc VN được viện trợ dồi dào về vũ khí và các phương tiện chiến tranh  khác bởi Trung Cộng và Nga Sô. Sự chiến đấu đơn độc và thiếu vũ khí do  nguồn viện trợ bị cắt đứt này của VNCH chỉ kéo dài được tới tháng  4-1975.


Ở đây tôi cũng muốn nhắc lại một sự kiện oan nghiệt trong trận chiến  Mậu Thân 1968. Đó là việc Tướng Nguyễn Ngọc Loan Tư Lệnh CSQG vào thời  đó đã bắn chết một tên đặc công VC ngay tại mặt trận. Việc bắn chết tên  đặc công này đã được ký giả Eddie Adam thu vào ống kính của đài NBC.  Hình ảnh này khi được phổ biến và phát đi đã khiến dư luận HK bất bình  và nặng nề chỉ trích chính quyền VN không tôn trọng quy ước tù binh được  LHQ công nhận. Ký giả Eddie Adam được trao giải thưởng truyền thông cao  quý Pulitzer và người ta không quên  nhắc lại  hình ảnh này như là một  điều tàn ác và đáng ghê tởm trong chiến tranh VN. Chỉ tiếc rằng người ta  đã quên không nhắc tới nhiều điều ghê tởm hơn thế nữa như vụ VC tàn sát  hơn 5000 người dân Huế cũng trong Tết Mậu Thân này bằng cách dùng cán  xẻng và búa rìu đập đầu hoặc chôn sống họ, hay vụ VC pháo kích vào một  trường tiểu học tại quận Cai Lậy thuộc tỉnh Định Tường làm thiệt mạng  hàng chục em bé học sinh. Đó là chưa kể biết bao trường hợp VC thủ tiêu  các cán bộ xã ấp VNCH mà chúng cho là phản động theo giặc (VNCH).

VAI TRÒ CỦA AN NINH TRONG NỖ LỰC PHÁT TRIỄN DÂN CHỦ VÀ KINH TẾ TẠI NAM VIỆT NAM TRƯỚC 1975.

Eddie Adam đã đến Washington DC dự đám tang Tướng Loan với vòng hoa thương  tiếc có ghi "Tears are in my eyes" (for you). Ông ngồi cạnh tôi và rất  buồn bã về bức hình mà ông đã chụp Tướng Loan bắn tên đặc công VC tại  chiến trường. Ông nói ông rất hối hận vì bức hình đó đã chỉ nói lên một  nửa sự thật. Nửa sự thật là hình Tướng Loan bắn tên VC. Còn nửa sự thật  kia là phần mà bức hình và tác giả của nó đã không nói lên: đó là chỉ ít  phút trước đó, tên đặc công VC Bảy Lém này đã đích thân hạ sát cả gia  đình một nhân viên cảnh sát gần đó và hắn đã bị bắt khi bỏ chạy khỏi  hiện trường và được giao nạp cho Tướng Loan tại mặt trận. Eddie Adam cho  biết ông hối hận vì đã giết chết sự nghiệp chính trị của một ông Tướng  anh hùng bằng một bức hình nửa sự thật đó. Người ta thường nói: một nửa  cái bánh mì thì vẫn là bánh mì. Nhưng một nửa sự thật thì không phải là  sự thật.


Tình huống này không phải chỉ xẩy ra cho Tướng Loan mà những tình  huống tương tự còn xẩy ra rất nhiều trong cuộc chiến VN. Nhiều bài bình  luận, nhiều bài báo cũng đã chỉ tường thuật một nửa của sự thật trong  cuộc chiến VN vì nhiều lý do khác nhau: vì thiên kiến, vì phản chiến, vì  những lý do chính trị hay lý do cá nhân. Khi cùng tham chiến thì nhiều  người ca tụng Quân Lực VNCH nhưng khi mệt mỏi muốn rút khỏi VN thì người  ta tự bào chữa và đổ thừa là tại quân lực ấy yếu hèn không chịu chiến  đấu. Và đó là lý do người Mỹ không thể giúp họ lâu hơn nữa. Chiến tranh  VN đã qua đi hơn 40 năm, có lẽ đã đến lúc chúng ta nên can đảm xét lại  tất cả để không còn một nửa sự thật nào phải dấu diếm và để 58,000 quân  nhân HK đã gục ngã trên chiến trường VN không bị coi là vô ích. Lịch sử  cần được viết lại để các thế hệ trẻ bây giờ và mai sau hiểu rõ về cuộc  chiến thảm khốc 10 năm mà HK đã tham gia. Trả lại danh dự cho những  người đã khuất cũng là việc nên làm và phải làm vì chúng ta là một dân  tộc yêu Tự Do và yêu Sự Thật.


Một số chương trình nổi bật của CSQG-VNCH:


- Chương trình Bình Định và Phát Triển Nông Thôn (Pacification and Rural development).


Chương trình Bình Định và Phát Triển là một chương trình phối hợp  giữa hai chính phủ HK và VNCH. Chương trình này phối hợp cả thành phần  quân đội lẫn dân sự của cả hai phía, nhằm tạo sự ủng hộ và hậu thuẫn của  dân chúng cho chính phủ VNCH, nhất là thành phần dân chúng tại nông  thôn.


Chương trình này khởi đầu từ năm 1967 và được coi là rất thành công,  nhưng đã phải gần như bỏ dở từ năm 1973 khi các thành phần quân sự và  dân sự Hk bắt đầu triệt thoái khỏi VN.  Tiến triển của chương trình   bình định này chậm lại trong thập niên 1970 vì chiến tranh quy ước do VC  chủ xướng (conventional war) gia tăng cường độ. Một số nông dân phần vì  bị hăm dọa, phần vì VC tuyên truyền, phần vì tài nguyên dành cho chương  trình này không còn đầy đủ vì phải dành ưu tiên cho chiến trường, đã  dần dà theo VC.


Vào giữa thập niên 60's Phó Đại sứ HK Komer cùng Tướng Creighton  Abrams Tư Lệnh quân đội KH tại VN là những người rất tích cực yểm trợ  chương trình bình định của VNCH. Ông Komer cho rằng muốn thành công  trong chương trình này thì trước hết phải lưu ý tới vấn đề an ninh tại  nông thốn để bảo đảm là VC không thể vận động nông dân trong nỗ lực  chiến tranh nổi dậy của chúng. Trước đó chính phủ Ngô Đình Diệm đã khá  thành công trong việc tách rời nông dân ra khỏi VC bằng chương trình Ấp  Chiến Lược (strategic hamlets). Tiếc thay chương trình ấp chiến lược đã  bị các tướng lãnh hủy bỏ sau khi đảo chánh TT. Diệm vào năm 1963.


Vẫn theo ông Komer, bước kế tiếp là phải tiệu diệt hạ tầng cơ sở VC  (đây là ý niệm đưa đến việc khai sinh chương trình Phụng Hoàng) để dành  lại sự ủng hộ chính phủ từ các thành phần nông dân. Kết quả là chương  trình Bình Định Phát Triển ra đời (CORDS_Civil operations and Rural  development Support) vào năm 1967 mà Cảnh Sát Quốc Gia Nam VN đóng vai  trò quan trọng hàng đầu trong vấn đề an ninh và tiêu diệt hạ tầng cơ sở  VC (chiến dịch phượng hoàng). Các chương trình dân vệ (local defense  militia) và xây dựng nông thôn (rural development forces) cũng ra đời để  phối hợp với CSQG loại trừ VC ra khỏi nông thôn và dành lại sự ủng hộ  của nông dân.


Song song với việc phát động chương trình Bình định, Chương trình Chiêu Hồi cũng được phát động. Nhiều cán binh VC đã bỏ ngũ trở về với chính phủ  quốc gia. VC rất bối rối. Chúng không thể để mất nông thôn về tay chính  quyền vì nông thôn chính là nguồn tiếp tế của chúng và là phương tiện  bao vây đô thị trong kế hoạch dành đất dành dân của chúng. Vì vậy VC gia  tăng khủng bố và thủ tiêu các viên chức xã ấp, cán bộ xây đựng nông  thôn và nhân viên cảnh sát. Chúng dùng những thủ đoạn khủng bố và  đe  dọa để buộc dân chúng nông thôn theo chúng.


Cảnh sát quốc gia đã tích cực tham gia trong các chương an ninh và  tiệu diệt hạ tầng cơ sở chính trị và tiếp tế của VC tại các vùng nông  thôn. Các chương trình này được CSQG cùng các đoàn dân vệ và phát triển  nông thôn thi hành trong nhiều năm và đã mang lại một Miền Nam tương đối  an ninh để công cuộc cải tiến dân sinh và phát triển kinh tế được thực  hiện.


- Chương trình Phượng Hoàng (Phoenix Program)


Một chương trình khác do Cảnh Sát VNCH thực hiện rất thành công,  nhưng cũng đã không tránh khỏi một số hiểu lầm và chịu khá nhiều chỉ  trích từ cả trong nước lẫn trên dư luận quốc tế. Đó là chương trình  Phượng Hoàng (Phoenix program ). Đây là một chương trình phối hợp tình  báo giữa nhiều cơ quan an ninh quốc gia, có sự tham gia lúc đầu của cơ  quan tình báo CIA của Hoa Kỳ nhằm khám phá và vô hiệu hóa các cơ sở nằm  vùng của VC.  Chương trình này được đẩy mạnh sau vụ tấn công Tết Mậu  Thân của VC và đã vô hiệu hóa được 81,740 người nằm trong hệ thống cơ sở  VC (VC infrastructure) thuộc diện tình báo, giao liên và tiếp tế cho  VC. Chương trình này kêu gọi dân chúng bằng cung cấp các thông tin giúp  phát hiện những phần tử VC nằm vùng. Đây là chương trình hợp tác quân sự  và dân sự mang tên 'phối hợp và khai thác tình báo' (intelligence  coordination and exploitation) giúp chính quyền khám phá và tiêu diệt  các mạng lưới cơ sở cộng sản.  Chương trình rất thành công. Trong năm  1968 đã bắt giữ được trên 13,000 cán bộ cộng sản nằm vùng, chiêu hồi  được 2230 cán binh VC. Chỉ trong vòng chưa đầy 4 năm, tính đến cuối năm  1972, tổng số cán bộ VC chiêu hồi đã lên tới 22,013 và không dưới 70  ngàn VC nằm vùng bị vô hiệu hóa.

VAI TRÒ CỦA AN NINH TRONG NỖ LỰC PHÁT TRIỄN DÂN CHỦ VÀ KINH TẾ TẠI NAM VIỆT NAM TRƯỚC 1975.

Tuy  thành công nhưng chương trình Phượng Hoàng cũng không tránh khỏi những  chỉ trích. Trước hết là những chỉ trích gay gắt từ phía VC. Họ xuyên tạc  rằng đây là chiến dịch nhằm bắt giữ và tiêu diệt đối lập chính trị của  chính quyền Nam VN.  Và vì chương trình này có sự tham gia lúc đầu của  cơ quan tình báo trung ương CIA, dư luận một số báo chí tây phương đã  chỉ trích CIA là đã sử dụng những hình thức tra tấn dã man để khai thác  tin tức từ những người bị bắt giữ, như tra tấn bằng bình điện, dìm xuống  nước (water boarding ) hoặc đóng đinh vào tai nạn nhân. Chiến dịch  Phượng Hoàng bị một số dư luận tây phương gọi là "chiến dịch ám sát"   của VNCH. Trong chiến dịch Phượng Hoàng, CIA cũng bị tố cáo là đã huấn  luyện các đơn vị VNCH các hình thức khủng bố như ám sát, tra tấn, thủ  tiêu, hăm dọa nhiều người vô tội.


Nói chung thì ngoài những chỉ trích tất nhiên phải có, chương trình  Phượng Hoàng đã thành công trong việc vô hiệu hóa khá nhiều mạng lưới cơ  sở VC, giúp chính quyền VNCH giữ vững được an ninh diện địa trên hầu  hết các vùng lãnh thổ do VNCH kiểm soát.  Theo báo cáo của phía HK thì  vào cuối năm 1970 đã có 91% các xã (trên tổng số 10,944 xã) được coi là  an ninh hoặc tương đối an ninh, chỉ có 1.4% tổng số xã là do VC kiểm  soát. Phía cầm quyền CSVN sau 1975 cũng xác nhận là chương trình Phượng  Hoàng đã làm suy yếu các cơ sở VC , tiêu diệt đến 95% cơ sở nằm cùng tại  một số khu vực tại Nam VN.


Chiến dịch Phụng Hoàng thực ra đã giúp củng cố an ninh cho Miền Nam.  Điều này cho thấy VNCH sụp đổ vào năm 1975 phần lớn là do thiếu phương  tiện chiến đấu (viện trợ HK bị cắt đứt) trên chiến trường khi phải đối  đầu với lực lượng quân sự được trang bị đầy đủ của VC, chứ không phải do  nhân dân nổi dậy như VC tuyên truyền. Tóm lại, nhờ các hoạt động tích  cực của các cơ quan chính quyền Nam VN, trong đó có các chương trình và  hoạt động của CSQG-VN mà VN vẫn giữ vững được an ninh (territorial  security) để vừa chiến đấu chống quân xâm lăng Bắc Việt, vừa phát triển  được xã hội và kinh tế Miền Nam.


Ngoài những oan khuất như kể trên, còn có điều tôi muốn nhấn mạnh ở  phần này là cảnh sát VNCH có lúc đã phải chiến đấu như một chiến binh  tuy đó không phải là nhiệm vụ chính của họ.  Họ cũng không được huấn  luyện để đảm nhiện công tác chiến đấu như vậy. Nhưng trên thực tế họ đã  phải cùng sát cánh với QLVNCH chiến đấu để bảo vệ người dân trên toàn  lãnh thổ VN, đặc biệt là tại các vùng nông thôn, khi tình thế đòi hỏi.  Tại một vài tỉnh Miền Trung, CSDC đã từng nhiều lần hành quân cùng với  các đơn vị quân đội HK. trong các chiến dịch lùng và diệt địch (search  and destroy)


Chính vì những hoạt động đa dạng này mà tôi nghĩ Cảnh Sát VNCH của  chúng tôi có những trách nhiệm  không giống những cơ quan cảnh sát  chuyên nghiệp tại nhiều quốc gia thời bình khác. Rất nhiều cấp chỉ huy  của chúng tôi được huấn luyên chuyên môn về cảnh nghiệp (police  administration) tại HK nhưng lại được huấn luyện tác chiến chống du kích  tại Mã Lai (kế hoạch của Sir Robert Thompson). Những kiến thức chuyên  môn về tổ chức và điều hành học hỏi từ các trường huấn luyện HK đã giúp  cảnh sát VN cải tiến rất nhiều so với các cơ quan cảnh sát khác tại vùng  Đông Nam Á. Chỉ riêng Học Viện CSQG được xây cất với trên hai triệu Mỹ  Kim viện trợ thời bấy giờ (1969) sản xuất trung bình hơn 1500 sĩ quan  mỗi năm củng đã được coi là một Học Viện cảnh sát lớn nhất Đông Nam Á,  được nhiều phái đoàn cảnh sát các quốc gia bạn viếng thăm trao đổi và là  nơi thường xuyên đón tiếp các phái đoàn quân sự và chính giới HK mỗi  khi họ viếng thăm VN.


Nhiệm vụ đa năng của CSQG-VN là điều tốt nhưng cũng là một bất lợi  khi những công tác có tính cách quân sự đã lấy đi thời gian và phương  tiện đáng lẽ phải dành cho những lãnh vực chuyên môn của cảnh sát và làm  cho việc yểm trợ an ninh đối với các công tác phát triển cộng đồng và  phát triển kinh tế bị thiệt thòi. Việc thiếu phương tiện và nhân sự cảnh  sát cũng ảnh hưởng đến tiến trình xây dựng và phát triển nền dân chủ  phôi thai tại VN phần nào , nhất là tại các vùng nông thôn.


Trong những năm sau cùng của cuộc chiến, trọng tâm của các chương  trình dân sự của chính phủ hầu hết đều hướng về nông thôn. Chương trình  'người cầy có ruộng' nhằm cung cấp ruộng cho nông dân làm chủ và khai  thác, chương trình phát triển 'ấp tân sinh" , chương trình bầu cử xã ấp,  chương trình giúp tín dụng cho nông dân canh tác qua các ngân hàng nông  thôn đều nằm trong trọng tâm này của chính phủ VNCH.


CSQG được điều động gia tăng về nông thôn để yểm trợ an ninh cho các  chương trình phát triển trên. Trong lễ mãn khóa Sĩ Quan Cảnh Sát vào  tháng 4-1972 Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đã chỉ thị tất cả các SQ  tốt nghiệp phải được gửi về phục vụ tại nông thôn.  Ông muốn bình định  nông thôn để phát triển dân chủ và tách rời nông dân khỏi những tuyên  truyền xảo trá và những đe dọa thường xuyên của VC.  Tại nông thôn, các  sĩ quan cảnh sát  vừa giữ nhiệm vụ Trưởng Cuộc vừa là Ủy Viên an ninh  phụ tá Chủ tịch xã. Nhiệm vụ này không kém phần nguy hiểm, nhất là tại  các xã thiếu an ninh thường bị VC về ban đêm. Ban ngày thì lo nhiệm vụ  chuyên môn, ban đêm thì lo chống đỡ VC. Phải nói rằng trong tình trạng  chiến tranh như VN 1954-1975 mà hơn 70% các xã ấp đã  bầu cử được hội  đồng xã thì quả là một bằng chứng thực thi dân chủ đáng khích lệ. Dĩ  nhiên trong đó có sự đóng góp khá lớn của cảnh sát VNCH trong công tác  bảo vệ an ninh thôn xóm.


Một vài suy nghĩ về cuộc chiến VN.


Trước hết chúng ta cần tái thẩm định lại cuộc chiến VN mà HK từng  tham dự. Chúng ta cần  minh định rằng chiến tranh VN không phải chỉ là  sự đối đầu bằng võ lực của hai miền Bắc và Nam VN. Đây thực sự là sự đối  đầu giữa hai Khối Cộng Sản và Tự Do. Khối CS muốn mà đại diện là Trung  Cộng muốn tiến xuống phía nam nhằm nhuộm đỏ toàn cùng Đông Nam Á. Phía  thế giới tự do tiêu biểu là KH muốn ngăn cản việc bành trướng đó của  khối cộng sản. VN ngẫu nhiên thành một tiền đồn ngăn chặn làn sóng đỏ.  Khối Cộng Sản đứng sau lưng viện trợ Bắc Việt và HK sau lưng VNCH. Cả  hai miền Bắc và Nam VN đều nhờ vào viện trợ và cung cấp vũ khí của một  bên là Nga Sô và Trung Cộng và một bên là HK. Nguồn cung cấp viện trợ và  vũ khí bên nào suy giảm thì sẽ bị thất thế và thất bại. Đây là trường  hợp Nam VN trở thành kẻ chiến bại năm 1975 khi chính quyền HK cắt giảm  viện trợ từ hàng tỷ Mỹ kim mỗi năm xuống còn trên dưới 300 triệu vào năm  1975. Người lính dù giỏi đến đâu cũng không thể chiến thắng khi không  đủ vũ khí và tiếp liệu.


Ở đây tôi không mưốn nhắc đến nhiều nguyên nhân khác nhau khiến VNCH  sụp đổ vào tháng tư 1975. Ngoài tương quan về lực lượng quân sự của hai  bên Bắc và Nam VN mà chúng ta đều biết,  cán cân nghiêng về phía Bắc  Việt sau khi HK rút quân và gần như ngưng viện trợ cho VNCH vào giai  đoạn 1973-75 . Tôi chỉ muốn ghi nhận rằng trong giai đoạn cuối cùng này  đời sống của người dân và xã hội tại Nam Việt nam đã tương đối ổn định  nhờ các chính sách phát triển kinh tế, giáo dục, dân sinh và nhất là các  chương trình phát huy và duy trì an ninh trong các kế hoạch bình định  nông thôn và tiêu diệt hậu cần cơ sở VC như chương trình Phượng Hoàng mà  Cảnh Sát VN tích cực tham dự.


Chúng tôi đã thắng về mặt dân sinh so với Miền Bắc VN nhưng chúng  tôi đã thua họ trên chiến trường vì thiếu súng đạn. Chúng tôi cũng đã  thua họ về mặt tuyên truyền trên diễn đàn dư luận thế giới với phong  trào phản chiến và giới truyền thông nhiều thiên lệch tại HK.  Trước  1973 chúng tôi đã thua không phải tại chiến trường mà tại HK.  Khi nguồn  viện trợ bị cắt đứt thì hậu quả tan rã của Nam VN là chuyện phải đến.


Hôm nay chúng tôi không muốn nhắc lại chuyện cũ, chỉ muốn quý vị  hiểu là trong thời chiến VNCH đã thực sự xây dựng được một xã hội tương  đối an ninh và phát triển cả về hai mặt kinh tế lẫn xây dựng dân chủ, dù  chỉ là một nền kinh tế đang khởi đầu cất cánh và một nền dân chủ phôi  thai so với nhiều quốc gia Tây phương khác vào thời đó.  Hy vọng là lịch  sử sẽ ghi nhận điều này. Tôi cũng hy vọng là các thế hệ trẻ lớn lên tại  đất nước này biết rõ một số sự thật về cuộc chiến VN mà cha ông họ đã  tham gia.


TMC (2016)


bottom of page