top of page
Banner edge

Hồi Ký của HARRY G. SUMMER, JR. (1)

(Nguyên Đại Tá Trưởng Phái Đoàn Hoa Kỳ trong Ủy Ban Liên Hợp Quân Sự Bốn Bên sau Hiệp Định Paris 1973)


Đó không phải là một ngày đáng tự hào để làm một người Mỹ. Ngày đó là  ngày 30 Tháng Tư năm 1975, vào lúc 5 giờ 30 sáng, khi chiếc trực thăng  Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) CH-46 rời khỏi mái nhà Tòa Đại Sứ Mỹ ở Sài  Gòn mang theo những người Mỹ cuối cùng, không kể những người lính TQLC,  để tới chiếc tầu USS Okinawa và nơi an toàn, toàn bộ sự phản bội của  chúng ta đã chấn động tận quê nhà. 420 người dân di tản ở phía dưới,  những người mà chúng tôi đã hứa hẹn nghiêm chỉnh rằng sẽ không bỏ rơi,  đã bắt đầu dồn ép những người lính TQLC cũng đang rút vào bên trong tòa  đại sứ.


Nhưng  đã quá trễ. Nước Mỹ đã không chỉ bỏ rơi người bạn đồng minh cũ một cách  vô trách nhiệm vào lúc dầu sôi lửa bỏng này mà còn bỏ rơi một cách đáng  hổ thẹn mấy trăm người di tản cuối cùng, những người đã tin cậy Hoa Kỳ  vào giờ phút cuối cùng đó. Trong số đó có cả những người lính cứu hỏa  địa phương, những người đã khước từ được di tản sớm vì e ngại một trong  những chiếc trực thăng có thể bị rớt trong sân tòa đại sứ; một linh mục  người Đức cùng với một số trẻ mồ côi Việt Nam; và những thành viên tòa  đại sứ Đại Hàn, gồm cả các sĩ quan Cơ Quan Trung Ương Tình Báo Đại Hàn,  những người đã tự nguyện ở lại đến giờ chót nhường cho các người dân  thường được di tản trước họ và để rồi sau đó họ đã bị thảm sát một cách  vô cảm bởi những kẻ xâm lược đến từ Bắc Việt Nam.


Cái đáng tiếc nhất là nó  hoàn toàn không có chủ ý, đó là do sự mất liên lạc giữa những người đang  thi hành công việc di tản ở tòa đại sứ, cùng những người ở ngoài khơi  trên những hàng không mẫu hạm đang kiểm soát các trực thăng, và những  người ở Honolulu và Washington đang có những quyết định sau cùng. Nói  tóm lại, Chiến Tranh Việt Nam một lần nữa đã chấm dứt.


Việc trở lại Việt Nam của  tôi vào tháng Bảy năm 1974 đã bắt đầu hoàn toàn khác với chuyến công tác  của tôi trước đó vào năm 1966-1967. Khác với lần công tác thứ nhất, lúc  đó tôi là một sĩ quan hành quân của Tiểu Đoàn 1, Trung Đoàn 2, Sư Đoàn 1  Bộ Binh (Hoa Kỳ), rồi sau khi bị thương lần thứ hai, tôi phụ trách sĩ  quan hành quân G-3 với lực lượng Dã Chiến II Việt Nam, lúc đó có thể đã  không còn nhiều chết chóc. Vào năm 1975, Việt Nam coi như đã hòa bình.  Nó tưởng như đã hòa bình đến nỗi vợ tôi và đứa con trai 18 tuổi đã tháp  tùng theo tôi tới Sài Gòn cùng với một số gia đình khác trong Phái Bộ Mỹ  – như ban tham mưu Tòa Đại sứ Mỹ; 50 nhân viên quân sự của Phòng Tùy  Viên Quốc Phòng (cơ quan DAO: Defense Attaché Office); và phái đoàn nhỏ  bé của Toán Quân Sự Hỗn Hợp Bốn Bên của Hoa Kỳ mà tôi được chỉ định làm  Trưởng Tiểu Ban về thương thuyết. Tòa đại sứ tọa lạc ở trung tâm Sài  Gòn, nhưng cơ quan DAO và Toán Quân Sự Hỗn Hợp Bốn Bên lại tọa lạc tại  trụ sở của cơ quan MACV (Military Assistance Command, Vietnam) cũ ở căn  cứ Tân Sơn Nhứt nơi ngoại ô Sài Gòn cách đó vài dặm.

Thomas Polgar, là Trưởng Văn Phòng CIA lúc đó, trong một bài báo (Managing the Company Store)  trên tạp chí Vietnam (tạp chí của các cựu chiến binh tham chiến tại Việt  Nam xuất bản mỗi hai tháng) trong Tháng Tám năm 1989 đã viết: “Vào năm  1973-1974, tôi thường xuyên lái xe từ Sài Gòn đi Mỹ Tho trong vùng đồng  bằng sông Cửu Long ... và để cho nhân viên của tôi lái xe đi Đà Lạt.  Những trục lộ chính xuyên suốt trong nước về căn bản là an toàn cho  những chuyến đi vào ban ngày.”


Khi người con trai lớn của  tôi, sau này là một sinh viên sĩ quan trường võ bị West Point, đến  chung vui với chúng tôi nhân mùa lễ Giáng Sinh 1974, cả hai cậu con trai  đều muốn tham gia vào toán người của tòa đại sứ lái xe đi chơi tắm Vũng  Tàu. Tôi đã từ chối, vì nhớ lại hai sư đoàn Mỹ đã từng phải khai thông  con đường đó gần mười năm trước vượt qua một vùng quê đầy thù nghịch.


Nhưng Việt Cộng đã gần như  biến mất khoảng gần sáu năm do hậu qủa của cuộc tấn công Tết 1968. Từ  đó cho đến khi ký kết Hiệp Định Hòa Bình Paris trong Tháng Giêng 1973,  cuộc chiến gần như chỉ là giữa quân đội chính qui Bắc Việt và Quân Lực  Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH), còn Việt Cộng hầu như không còn giữ một vai  trò gì. Và, kể từ sau Tết 1968, Hoa Kỳ cũng đã bắt đầu giảm bớt sự liên hệ. Tiếp theo trận đánh trên Đồi Thịt Bằm (Hamburger Hill) vào tháng  5-1969, tất cả các cuộc hành quân có tính tấn công chiến lược của Hoa Kỳ  đã bị cắt giảm một cách nghiêm trọng, và kể từ tháng 7-1969 việc rút  quân đội Mỹ đã bắt đầu được thực hiện. Đến Tháng Tám năm 1972 toàn bộ  các lực lượng trên bộ của Hoa Kỳ đã ra đi.


Đến Tháng Ba năm 1973,  theo Hiệp Định Paris, tất cả lực lượng quân sự Mỹ còn lại, ngoại trừ 50  nhân viên DAO và các thành viên Toán Quân Sự Hỗn Hợp Bốn Bên, đều đã rời  khỏi Việt Nam. Các trận đánh trong năm 1973 chỉ còn giới hạn qua các  trận đụng độ nhỏ nơi nông thôn hẻo lánh giữa QLVNCH và 15 sư đoàn Bắc  Việt, gồm khoảng 149.000 quân chiến đấu và 71.000 quân yểm trợ đã được  phép ở lại Miền Nam Việt Nam theo những điều khoản của Hiệp Định Paris.  Nhiều người sau này đã trách cứ cho rằng đó là những điều khoản đã dẫn  đến sự sụp đổ của Miền Nam Việt Nam.


Tuy nhiên, Trưởng văn  phòng CIA Polgar lại không đồng ý về điều đó. Trong cuộc phỏng vấn với  tạp chí Vietnam vào Tháng Tám năm 1989, ông đã nói rằng “Hiệp Định  Hòa Bình Paris được coi như là một thỏa hiệp trong danh dự và hợp lý đã  được thảo ra và ký kết ... Vấn đề là ở chỗ Bắc Việt đã nhạy bén và nhận  thấy sự suy yếu trong quyết tâm của Mỹ không còn muốn tiếp tục yểm trợ  cho Nam Việt Nam, nên những người Cộng Sản đã gia tăng xem thường bản  Hiệp Định Paris. Các điều khoản của Hiệp Định Paris nếu được thi hành,  chẳng hạn giống như những điều khoản trong bản Thỏa Ước Đình Chiến Đại  Hàn năm 1953, thì sự tiếp tục cho một Miền Nam Việt Nam độc lập, dù có  thể bị yếu đi, cũng có thể được bảo đảm trong nhiều năm.”


Nhưng nó đã không được như vậy, bởi vì vào đúng cái thời điểm quan trọng  nhất Hoa Kỳ đã không giữ lời hứa. Như Tướng Homer Smith đã đề cập  [trong bài viết “Bốn Mươi Lăm Ngày Cuối Cùng ở Việt Nam” (Final Forty  Five Days in Vietnam) trên tạp chí Vietnam số Tháng Tư 1995] rằng, không  chỉ Quốc Hội đã không đáp ứng số tiền gần một tỷ đô la viện trợ quân sự  của Hoa Kỳ cho Việt Nam, mà cả chính phủ Mỹ cũng ngoảnh mặt với những  cam kết về an ninh của mình.


Tổng Thống Richard Nixon  trong một lá thư gởi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu của Miền Nam Việt Nam  vào tháng 11 năm 1972 trước ngày ký Hiệp Định Hòa Bình Paris đã viết:  “Tôi bảo đảm tuyệt đối với ông rằng, nếu Hà Nội không tôn trọng những  điều đã cam kết trong bản hiệp định này, tôi sẽ có những hành động trả  đũa quyết liệt.” Nhưng rất tiếc không đầy hai năm sau, Nixon đã phải rời  khỏi chức vụ vì vụ tai tiếng Watergate.


Tại một buổi họp của Bộ  Chính Trị Bắc Việt vào Tháng Mười năm 1974, Lê Duẩn, người kế tục Hồ Chí  Minh, đã lưu ý về sự kiện đó và “đưa ra một quyết định quan trọng đã  trở thành một nghị quyết.” Y nói, một khi đã rút ra khỏi Miền Nam, Hoa  Kỳ khó mà có thể quay trở lại, nên sẽ không có vấn đề nó sẽ can thiệp  như thế nào, và nó không thể nào cứu vãn cho chính phủ Sài Gòn khỏi sụp  đổ.


Tỉnh Phước Long nằm ở phía  Tây Bắc của Sài Gòn là một thí nghiệm cho quyết nghị đó. Ở nơi tương  đối hẻo lánh, lực lượng phòng thủ của tỉnh chỉ gồm có bốn tiểu đoàn Địa  Phương Quân với quân số khoảng 340 cho mỗi tiểu đoàn và một số trung đội  Nghĩa Quân. Hỏa lực yểm trợ gồm có 4 khẩu đại bác 155 ly và 16 khẩu 105  ly được sử dụng bởi các trung đội sử dụng cả hai loại súng cho toàn  vùng.


Lực lượng phòng thủ này  thật không tương xứng với Binh Đoàn 301 của quân đội Bắc Việt, gồm có Sư  Đoàn 3 tân lập của Bắc Việt, Sư Đoàn 7 kỳ cựu, một tiểu đoàn xe tăng  với những chiếc tăng T-54 của Sô Viết, một trung đoàn pháo binh, một  trung đoàn pháo cao xạ, cùng các đơn vị bộ binh và công binh địa phương.  Cuộc tấn công của họ khởi đi từ những mật khu ở Cambodia vào ngày 13  tháng 12 năm 1974, binh đoàn 301 đã loại bỏ những chốt tiền tiêu của Nam  Việt nam, rồi tập trung tấn công vào sân bay Sông Bé.


Quân đồn trú tại đó được  tăng viện bởi Tiểu Đoàn 2 của Sư Đoàn 7 Bộ Binh được trực thăng vận đến  từ căn cứ Lai Khê. Thêm sáu khẩu đại bác 105 ly cũng được trực thăng vận  đến. Sau đó, hai đại đội của Tiểu Đoàn 85 Biệt Động Quân của QLVNCH  cũng được gởi đến. Nhưng chúng vẫn không cân xứng với quân Bắc Việt mà  pháo binh của chúng thật dữ dội. Cho đến ngày 3 tháng 1 năm 1975, mức độ  pháo kích của quân Bắc Việt đã lên đến 3.000 qủa một ngày. Theo sử liệu  chính thức về trận đánh, “cuối cùng vào ngày 6 tháng 1, vị tỉnh trưởng  đã nhận ra rằng ông ta không thể làm chủ trận chiến.”


Báo cáo viết, “dưới sự  trực xạ từ bốn chiếc xe tăng T-54, ông đã bị thương nặng nên đã cùng bộ  tham mưu còn lại rút khỏi Sông Bé. Quân Bắc Việt đã chiếm được một tỉnh  đầu tiên.” Sự tổn thất của Nam Việt thật là choáng váng. Trên 5.400 binh  sĩ QLVNCH và các lực lượng Địa Phương Quân và Nghĩa Quân đã tham gia  vào trận đánh, nhưng chỉ khoảng 850 người sống sót. Vị tỉnh trưởng cũng  chẳng thoát được đến nơi an toàn. Khoảng 3.000 thường dân trong số  30.000 hay hơn đã trốn khỏi sự kiểm soát của cộng sản. Một số viên chức  xã, ấp, tỉnh đã bị bắt và đã được coi như thiệt mạng. Tuy nhiên, những  tổn thất này bi kịch là ở chỗ, trận đánh đã tạo ra những hậu qủa khôn  lường. Trận chiến ít được lưu ý tại Phước Long lại là một trong những  trận đánh quyết định cuộc chiến vì nó đánh dấu sự bỏ rơi của Hoa Kỳ đối  với người bạn đồng minh lâu năm trước số phận bi thương của nó. “Nghị  Quyết” của Lê Duẩn đã qúa đúng. Để đương đầu với sự vi phạm trắng trợn  Hiệp Định Paris – nó đã được nghiên cứu kỹ lưỡng để cố tình vi phạm hầu  thử thách sự đối phó của Mỹ - Tổng Thống Gerald Ford đã chỉ hạn chế sự  đối phó một cách yếu ớt bằng những lưu ý về ngoại giao. Bắc Việt đã nhận  được cái tín hiệu xanh cho cuộc xâm lăng Nam Việt Nam.


Tướng Bắc Việt Văn Tiến  Dũng, người chỉ huy trận tấn công vượt tuyến sau cùng để tiến chiếm Nam  Việt Nam, đã phát biểu tại cuộc họp Bộ Chính Trị ngày 8-1-1975 rằng, “Rõ  ràng là Mỹ rất khó có thể quay trở lại, … Để lợi dụng thời cơ lớn lao  này, chúng ta phải có những trận đánh thật qui mô rộng khắp để tiêu diệt  và đập tan kẻ thù trên một bình diện lớn.” Thế là việc chuẩn bị cho một  trận chiến sau cùng của quân Bắc Việt đã được hoạch định.


Tướng Smith đã chi tiết  hóa diễn tiến của sự phản bội đó như sau, vào Tháng Ba 1975, Tổng thống  Nguyễn Văn Thiệu đã có một quyết định đầy định mệnh là bỏ Cao Nguyên đã  khiến cho toàn bộ cấu trúc phòng thủ của Miền Nam Việt Nam bắt đầu bị  tan rã. Nhưng không phải toàn bộ QLVNCH đã sụp đổ. Sư Đoàn 18 Bộ Binh  tại Xuân Lộc, khoảng 40 dặm về phía Đông Bắc Sài Gòn đã cố gắng một cuộc  chiến đấu thật can đảm.


Từ ngày 17-3-1975 đến ngày  5-4-1975, Sư Đoàn 18 Bộ Binh đã giữ vững vị trí, gây tổn thất nặng nề  cho các sư đoàn 6, 7, và 341 của Bắc Việt. Chỉ cho đến khi Bắc Việt đem  vào sư đoàn 325 và đưa vào trận địa các sư đoàn 10 và 304 thì Sư Đoàn 18  mới rút lui. Nhưng cũng đã qúa trễ, vì vào những tuần lễ cuối cùng của  Tháng Tư, các sư đoàn quân Bắc Việt đã vào đến cửa ngõ Sài Gòn. Rõ ràng  là tất cả đã đến hồi kết cuộc.


Vào lúc đó, đường dây liên  lạc duy nhất giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt là qua trung gian Toán Quân Sự Hỗn  Hợp Bốn Bên được hưởng quy chế ngoại giao theo Hiệp Định Paris. Các  chuyến bay thường xuyên của Toán QSHHBB giữa Sài Gòn và Hà Nội đã được  thực hiện kể từ năm 1973.


Sử dụng những vận tải cơ  C-130 của Bộ Chỉ Huy Không Lực Thái Bình Dương, các chuyến bay đã bao  gồm các thành viên của cả bốn phái đoàn trong Toán QSHHBB gồm có Hoa Kỳ,  Bắc Việt, Nam Việt Nam (VNCH) và Việt Cộng mà tên gọi chính thức của nó  là “Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam”. Một chuyến bay như  vậy đã được sắp xếp vào ngày 25-4-1975, với sự biết rằng chính phủ Bắc  Việt ở Hà Nội đã được chuẩn bị vị trí cho việc Hoa Kỳ rút đi.


Là Trưởng Phái Đoàn thương  thuyết của chính phủ Hoa Kỳ, tôi được hưởng quy chế ngoại giao theo  Hiệp Định Paris. Tôi được lệnh thực hiện chuyến bay, cùng đi với tôi là  thông dịch viên, Chuyên viên 7 Garnett “Bill” Bell (sau này đã nghỉ hưu  và hoạt động trong những công tác về POW/MIA và từng là Trưởng Văn Phòng  POW/MIA của Mỹ ở Hà Nội – trước khi Mỹ và Hà Nội có bang giao). Bell là  một chiến sĩ rất nhiệt tình trong công tác, ông vừa trở lại nhiệm sở  sau khi đã chuyển đưa thi hài của người vợ và các con về Hoa Kỳ cùng với  đứa con gái còn sống sót duy nhất. Họ đã bị tử nạn trong tai nạn máy  bay rớt trong khi di tản các trẻ em mồ côi trên chiếc máy bay C-5 ngày  3-4-1975. Tai nạn đó cũng lấy đi mạng sống của Barbara Kavulia, người  thư ký dân sự của Tiểu Ban Thương Thuyết. Mặc dù được phép ở lại Hoa Kỳ,  nhưng Bell vẫn trở lại vì ông biết rằng ông là một thông dịch viên rất  cần thiết cho phái đoàn.


Kể từ lúc bắt đầu cho đến  khi hoàn tất chuyến đi là cả một vấn đề vượt ngoài sức tưởng tượng. Để  lên đường, tôi cần có những sự hướng dẫn về thương thuyết. Toán QSHHBB  đã có sự chỉ huy kép. Một là qua cơ quan DAO (Văn Phòng Tùy Viên Quân  Sự) ở Sài Gòn và Bộ Chỉ Huy Thái Bình Dương ở Honolulu cùng ông phụ tá  bộ trưởng quốc phòng Roger Shields đặc trách về POW/MIA ở Ngũ Giác Đài.  Hai là qua con đường ngoại giao mà khởi đầu với James Devine, một viên  chức vừa quân sự vừa chính trị ở Tòa Đại Sứ ở Sài Gòn. Vì đây là một sứ  mạng ngoại giao mà tôi đại diện cho chính phủ Hoa Kỳ nên tôi đã tìm gặp  Devine để nhận những sự hướng dẫn về những điều khoản mà Hoa Kỳ đề nghị.  Nhưng vào lúc đó, vị đại sứ Hoa Kỳ Graham Martin vừa bị mất một người  con trai trong cuộc chiến ở Việt Nam, đang bị suy sụp về tinh thần lẫn  thể chất và ông Ngoại Trưởng Kissinger ở Hoa Thịnh Đốn hầu như cũng đang  toan tính một sự “phản bội” với tên Lê Duẩn của Bắc Việt, thành ra  Devine cũng mù mờ như tôi vậy.


Tôi hỏi: “Những hướng dẫn về thương thuyết dành cho tôi như thế nào?”


Devine đáp: “Mẹ kiếp, tôi cũng không biết nữa.”


Tôi nói: “Vậy tôi phải làm gì đây?”


Devine trả lời: “Thì cứ cố gắng hết mình thôi.”


Nếu tôi tiết lộ sự hướng  dẫn lạ kỳ này cho Bắc Việt, họ có thể đã nghĩ rằng tôi nói dối họ, bởi  vì bất cứ những gì họ làm, kể cả việc ấn định cho chúng tôi đậu chiếc  máy bay C-130 ở sân bay Gia Lâm ở Hà Nội cũng có một mục đích chính trị.  Chiếc C-130 phải đậu làm sao để cho các hành khách trên chuyến máy bay  thương mại của Trung Quốc đến từ Quảng Đông phải đi dưới cánh chiếc máy  bay Mỹ để ra vào nơi tiếp nhận hành khách, rõ ràng đây là một hình thức  thiếu tôn trọng.


Hà Nội, như đã được tưởng  tượng, có vẻ hồ hởi với những đám đông tụ tập ngoài đường phố. Sau những  năm chiến đấu họ đã thắng trên chiến trường điều mà họ đã thất bại tại  bàn thương thuyết.


Tôi nói với Đại tá Tư (không rõ Tư, Tứ, Tú hay Tự, nguyên văn tiếng Anh không bỏ dấu), người đối đầu với tôi của Bắc Việt: “Ông nên biết rằng, các ông chưa bao giờ đánh bại được chúng tôi ở chiến trường.”


Ông ta đã nói: “Có thể là như vậy, nhưng cũng không hẳn là như thế.”


Như đã mong đợi, Bắc Việt  đưa cho tôi những điều khoản về việc rút đi của Hoa Kỳ. Họ nói, cơ quan  DAO, mà bộ phận tuyên truyền của Bắc Việt đã khiếu nại một cách sai lạc  con số lên đến hàng ngàn phải ra đi hết. Toán QSHHBB (những người mà họ  cố gắng liên hệ trong cuộc thương nghị về chuyện đòi bồi thường thiệt  hại do chiến tranh để đổi lấy những tin tức về POW/MIA) được ở lại và  tòa đại sứ Hoa Kỳ có thể hoạch định tương lai cho nó.


Trở lại Sài Gòn, tôi được  gặp Eric von Marbod, đại diện riêng của Bộ Trưởng Quốc Phòng James  Schlesinger. Tôi báo cáo: “Đó là một tình thế hết sức rắc rối mà tôi đã  tham dự. Đáng lẽ tôi nên cho họ một cái tối hậu thư về bom nguyên tử và  họ sẽ phải tin tôi.”


“Sao ông không làm như vậy đi?”, ông đã nói với vẻ nửa đùa cợt. Tôi vẫn  tự hỏi, điều gì có thể đã xảy ra nếu Tổng Thống Ford, lúc ấy còn đang  bận chơi golf trong một trận đấu ở California, đã làm như thế. Nhưng  cũng giống như Pontius Pilate (2), cả ông và Quốc Hội đã phủi tay với  Việt Nam rồi.


Vào lúc đó, quân Bắc Việt  đã tiếp tục đến gần vành đai Sài Gòn. Mười sáu sư đoàn quân Bắc Việt đã  mở một cuộc tấn công với ba mũi giáp công vào thủ đô của Miền Nam. Cái  kết cuộc đắng cay đã đang kề cận.


Trước đó, dự trù rằng  chúng tôi có thể ở lại sau khi Sài Gòn thất thủ, phái đoàn QSHHBB của  Hoa Kỳ đã được tinh giản một cách kỹ lưỡng, hầu hết các nhân viên quân  sự của chúng tôi đã được tái phối trí tới Thái Lan để hình thành một  toán công tác đặc biệt tại hậu cứ. Ngày 20-4-1975, Ngũ Giác Đài đã chỉ  đạo một chuyến bay đặc biệt để di tản tất cả các nhân viên dân sự người  Việt tới Guam.


Thành phần còn lại trong  phái đoàn gồm có Đại tá Lục Quân John H. Madison, Jr., trưởng phái đoàn;  cá nhân tôi; vị phụ tá của tôi, Đại Úy Lục Quân (nay đã là Đại Tá)  Stuart A. Herrington; Thượng sĩ William G. Herron; Trung sĩ xạ thủ TQLC  Ernest Pace; và Bill Bell.


Trong mấy tuần lễ vừa qua,  chúng tôi đã bận rộn giúp cho Tướng Smith và ban tham mưu DAO thực hiện  những cuộc di tản bằng máy bay có cánh cố định các thường dân Hoa Kỳ,  gia đình họ và các nhân viên Việt Nam đã được lọc lựa. Chúng tôi liên  tiếp nhận được những công văn ưu tiên từ Hoa Thịnh Đốn hướng dẫn chúng  tôi lựa chọn di tản những viên chức cao cấp của Việt Nam cùng với gia  đình họ mà mạng sống của họ có thể bị hiểm nguy vì những sự cộng tác với  Hoa Kỳ trong thời gian chiến tranh. Tiến trình này đã trở nên phức tạp  vì chính phủ Nam Việt Nam đã ngăn cấm một sự ra đi như thế, cho nên cảnh  sát an ninh Nam Việt Nam đã ngăn chận các cổng vào Tân Sơn Nhứt. Nhưng  nhờ vào sự khéo léo của Đại Úy Herrington, một sĩ quan xuất sắc thông  thạo tiếng Việt nên những khó khăn này đã được vượt qua.


Một trong những tình huống  cảm động đã xảy ra trong lúc thực hiện việc di tản gia đình các cộng sự  viên trong phái đoàn QSHHBB của Nam Việt Nam. Một vị đại tá đã giàn  giụa nước mắt nói những lời từ biệt cuối cùng với vợ và các con của ông  ngay tại cầu thang máy bay để tiễn họ ra đi đến nơi an toàn. Bất ngờ  Herrington nói với ông ta:


- Ông lên máy bay đi.


Vị đại tá nói trong đau khổ:


- Tôi không thể làm như thế. Tôi không thể bỏ mặc quê hương tôi trong lúc tuyệt vọng này.


Herrington nói:


- Thôi đừng khùng nữa ông  ơi. Mọi việc đã xong cả rồi. Tổng thống Thiệu đã ra đi rồi. Những người  khác cũng đang ra đi. Ông hãy lên máy bay mà  lo cho gia đình ông.


Cuối cùng vị đại tá đã miễn cưỡng nghe theo.


Lúc đầu tôi cũng giận dữ.  Tôi nói với Herrington: “Bạn biết rõ là ông Thiệu chưa ra đi mà. Và bạn  cũng biết là chúng ta bị cấm không được di tản bất cứ người nào trong  QLVNCH. Tại sao bạn lại để cho ông sĩ quan này phải khó xử giữa một bên  là nhiệm vụ và một bên là gia đình ?”


Thế nhưng Herrington đã nói đúng. Đó chỉ là vấn đề thời gian khi nào ông  Thiệu sẽ ra đi và đất nước này sụp đổ. Vị sĩ quan đó chả làm được gì để  có thể thay đổi được. Nếu ông ta ở lại, ông ta cũng sẽ chỉ để cộng thêm  vào cái con số sĩ quan QLVNCH phải ở trong các trại tập trung của nước  Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam nơi mà, nếu ông ta không chết thì  cũng bị lăng nhục trong suốt mười bảy năm kế tiếp, bởi vì mãi đến năm  1992, người sĩ quan tù binh cuối cùng của QLVNCH mới được thả.


Nhưng rồi, như Tướng Smith  đã mô tả, cuộc di tản bằng máy bay có cánh cố định đã phải chấm dứt vì  đạn hỏa tiễn của quân Bắc Việt bắn vào Tân Sơn Nhứt làm chết hai TQLC  phụ trách an ninh là Hạ Sĩ Darwin Judge và Hạ Sĩ Charles McMahon.


Ngày 29-4-1975, chúng tôi  di chuyển từ trụ sở DAO tới Tòa Đại Sứ ở trung tâm Sài Gòn để chuẩn bị ở  lại. Tuy nhiên khi vừa đến nơi, chúng tôi được biết rằng Ngoại Trưởng  Kissinger đã ra lệnh cho tất cả các nhân viên Hoa Kỳ phải rời khỏi Việt  Nam, kể cả Toán QSHHBB và ban tham mưu tòa đại sứ.


Trong lúc cuộc di tản ở  trụ sở DAO được bắt đầu, cuộc di tản duy nhất từ tòa đại sứ bởi một ít  máy bay trực thăng UH-1 của hãng Air America đã được thực hiện từ trên  nóc nhà để làm con thoi di chuyển những nhân viên tới địa điểm di tản ở  DAO. Kế hoạch dự trù di tản khoảng 100 nhân viên Hoa Kỳ từ tòa đại sứ  theo cách này. Những người di tản khác sẽ được di chuyển bằng xe búyt  hoặc bằng trực thăng của Air America tới địa điểm di tản chính ở DAO.  Nhưng kế hoạch này đã bị hỏng vì đã có khoảng 3.000 người mà một nửa là  người Việt đã tụ tập bên trong bức tường tòa đại sứ. Những đường phố Sài  Gòn đang trở nên tắc nghẽn, không có cách nào có thể chuyển họ bằng xe  búyt tới địa điểm di tản ở Tân Sơn Nhứt được cả.


Một cây me lớn trong sân  tòa đại sứ đã làm cản trở cho việc sử dụng bãi đáp (trực thăng), và ông  Đại sứ Martin rõ ràng đã coi cái cây như là một biểu tượng cho quyết  định không rời bỏ nhiệm sở của ông, ông đã không đồng ý cho đốn nó  xuống. Nhưng bây giờ thì cái kết cuộc đã không thể nào tránh khỏi, nên  cái cây cuối cùng đã ngả xuống. Tuy nhiên, cái bãi đáp vẫn còn bị cản  trở bởi đám thường dân di tản. Để làm giảm bớt sự lộn xộn, Đại Tá  Madison đã tình nguyện cùng với Wolfgang Lehman, phó trưởng phái bộ  (chức vụ tương đương phó đại sứ), ra giúp ổn định trật tự.


Trong lúc Thiếu tá TQLC  James Kean và các nhân viên an ninh tòa đại sứ được tăng cường thêm  khoảng 130 TQLC Mỹ từ Lực Lượng An Ninh Lãnh Thổ tại cơ quan DAO canh  giữ bức tường không cho thêm người vào bên trong, chúng tôi phải dọn  sạch bãi đáp trong sân tòa đại sứ và tổ chức cho những người di tản ra  đi. Sự lộn xộn lại bắt đầu bùng ra khi đám đông nhìn thấy những chiếc  trực thăng của Air America cất cánh từ mái nhà tòa đại sứ. Nỗi lo sợ tệ  hại nhất của chúng tôi trong cuộc di tản là sợ rằng sẽ lập lại cái sự  việc đã xảy ra ở Đà Nẵng vào tháng trước, nơi mà sự hoảng sợ đã qúa mức  và ngay cả việc đáp xuống cũng không thực hiện được, vì sợ rằng máy bay  sẽ bị chật cứng không thể nào cất cánh lên được.


Những điều đó đã không xảy  ra ở tòa đại sứ. Đó là nhờ các nhân viên an ninh TQLC giữ an ninh bức  tường đã ngăn chặn cả ngàn người ở ngoài đường không để tràn vào bên  trong. Một lý do khác nữa là nhờ Đại úy Herrington, các trung sĩ Herron  và Pace cùng với chuyên gia Bell (tất cả đều nói được tiếng Việt) đã cam  kết với đám đông rằng họ sẽ không bị bỏ lại.


Công việc trước tiên là phải dọn trống cái sân tòa đại sứ. Dưới sự kiểm  soát của Trung sĩ xạ thủ Pace, hầu hết những người ở trong sân được  chuyển vào bên trong tòa nhà tòa đại sứ, để rồi sau đó sẽ được di tản từ  trên mái nhà khi các trực thăng CH-46 Sea Knight đến từ hàng không mẫu  hạm ngoài khơi. Số người còn lại được tập trung trong trụ sở của CRA  (Combined Recreation Association) ở bên cạnh. Khu vực hội quán tòa đại  sứ và hồ bơi được ngăn cách với chính tòa đại sứ bằng trạm cứu hỏa và  một cái hàng rào làm bằng những sợi xích.


Với sự giúp đỡ của vị  truyền giáo địa phương, Mục sư Tom Stebbins, người nói được tiếng Việt,  tôi đã đi loanh quanh giữa đám đông trong trụ sở CRA đảm bảo với mọi  người rằng thế nào họ cũng được di tản. Trong khi đó, một bãi đáp dành  cho những trực thăng TQLC CH-53 Sea Stallion lớn hơn cũng đã được dọn  dẹp xong trong sân tòa đại sứ. Mặc dù với hai bãi đáp được sử dụng cùng  một lúc, việc di tản vẫn bắt đầu một cách chậm chạp và thưa thớt, vì địa  điểm di tản chính ở Tân Sơn Nhứt vẫn là ưu tiên. Đến khoảng nửa đêm, đã  có khoảng 1.800 người được di tản từ tòa đại sứ, nhưng rồi đoàn trực  thăng phải tạm ngưng để chờ lấy thêm nhiên liệu sau khi hoàn tất cuộc di  tản ở DAO. Sự hoảng sợ bắt đầu bùng ra trong đám người di tản vẫn còn  trong trụ sở CRA.


Các lính TQLC giữ gìn an  ninh nơi cổng giữa trụ sở CRA và sân tòa đại sứ đã bắt đầu bị chèn ép dữ  dội. Đại úy Herrington phải đến để giải cứu bằng cách vào hẳn bên trong  trụ sở CRA để vãn hồi trật tự, chính tôi cũng đi theo cùng với Trung sĩ  Herron. Herron nói bằng tiếng Việt: “Không ai sẽ bị bỏ lại.” Herrington  thì nói bằng tiếng Anh: “No one will be left behind!” Anh đã lập đi lập  lại cam kết với họ: “Tôi ở đây với quý vị, và tôi sẽ đi chuyến trực  thăng chót. Họ sẽ không bỏ tôi ở lại đây đâu. Không ai bỏ quý vị đâu.  Một lát nữa các trực thăng sẽ trở lại.” Cuối cùng sự hoảng sợ mới tạm  lắng. Ngay sau đó, chúng tôi đã di chuyển khoảng 1.100 người còn lại  trong trụ sở CRA đi qua cổng và đi lên mái nhà trạm cứu hỏa để từ đó họ  có thể thấy những gì đang diễn ra.


Vào khoảng 2 giờ sáng,  đoàn trực thăng đã trở lại. Sau khi buộc mọi người phải bỏ lại hành lý,  chúng tôi thấy rằng chúng tôi có thể để 90 người Việt lên mỗi chiếc  CH-53. Đến khoảng 4g15 sáng, Đại tá Madison thông báo cho Wolfgang  Lehman rằng, chỉ cần sáu chuyến không vận nữa để hoàn tất việc di tản.  Lehman cho ông biết rằng sẽ không có thêm trực thăng nữa. Nhưng Đại tá  Madison thì không thể không có nó. Chúng tôi đã nói ra ý kiến của chúng  tôi.


Madison và các cộng sự của  ông sẽ đi chuyến không vận cuối cùng sau tất cả những người di tản dưới  sự đảm trách của chúng tôi được bay đi đến nơi an toàn. Lehman đã phải  dịu giọng và nói các trực thăng sẽ được phái đến. Chính điều này sau đó  đã được xác nhận bởi Brunson McKinley, phụ tá riêng của ông đại sứ. Thế  nhưng McKinley đã nói dối. Ngay cả khi ông cam kết với chúng tôi, ông đã  biết rằng cuộc không vận đã bị hủy bỏ, và sau đó ông đã mau chóng di  tản cùng với ông đại sứ và Lehman, vị phó trưởng phái bộ của ông. Đó là  lần duy nhất trong 38 năm quân ngũ tôi đã nói dối về một vấn đề hành  quân. Đối với một sĩ quan trong quân đội, hành động như vậy không nghĩ  là có thể xảy ra. Nhưng Bộ Ngoại Giao rõ ràng đã có những chuẩn mực  khác, cho nên sau này McKinley đã trở thành một viên chức cao cấp tại Bộ  Ngoại Giao phụ trách về người tị nạn.


Mặc dù chúng tôi đã bảo  đảm là chúng tôi sẽ không bỏ họ và chúng tôi sẽ là những người ra đi  cuối cùng, nhưng rồi Đại Tá Madison cũng không còn cách nào khác hơn là  phải làm như vậy. Ông đã ra một cái lệnh thật không thể ngờ cho toán của  ông rút đi. Khi chúng tôi ra đến hàng không mẫu hạm, Madison đã quở  trách viên chỉ huy phi đội trực thăng vì sự thiếu chữ tín. Nhưng cả ông  nữa, cũng đã hoảng hốt. Mọi người đều hiểu rằng, họ đang trải qua một sự  khủng hoảng dữ dội, và không ai nhận ra rằng tất cả sáu chuyến không  vận đã không được thực hiện.


Thật ra lời cáo chung cho  mối liên hệ của Hoa Kỳ ở Đông Dương đã được dự báo từ tháng trước, trước  sự thất thủ của thành phố Nam Vang (Phnom Penh), nơi nước láng giềng  Cambodia. Ngay vào những ngày cuối cùng trước khi bị hành quyết bởi bọn  Khmer Đỏ, Quốc Trưởng Cambodia Sirik Matak đã viết trong lá thư cuối  cùng gởi vị Đại Sứ Mỹ để từ chối lời mời di tản dành cho ông như sau:


“…Hỡi ơi, tôi không  thể nào ra đi một cách hèn nhát như vậy. Đối với ông và đặc biệt với đất  nước vĩ đại của ông, tôi chẳng bao giờ tin được rằng các ông lại có cái  ý định bỏ rơi một dân tộc đã lựa chọn sự tự do … Các ông cứ ra đi và  tôi cầu chúc cho ông và đất nước ông sẽ tìm thấy hạnh phúc dưới bầu  trời.


“Nhưng ông hãy ghi nhớ  cho rằng, nếu tôi sẽ chết ở đây vào lúc này và trên quê hương mà tôi  yêu mến, điều đó thật là tồi tệ dù rằng chúng ta tất cả được sinh ra và  sẽ phải chết một ngày nào đó. Tôi chỉ có một lỗi lầm duy nhất là đã tin  cậy ở các ông, những người Mỹ.”


(nguyên văn: …I cannot, alas, leave in such a cowardly fashion. As for  you and in particular for your great country, I never believed for a  moment that you would have this sentiment of abandoning a people which  has chosen liberty … You leave and my wish is that you and your country  will find happiness under the sky.


But mark it well that, if I  shall die here on the spot and in my country that I love, it is too bad  because we all are born and must die one day. I have only committed  this mistake in believing in you, the Americans.)


TOÀN NHƯ

(Dịch từ THE BITTER END  của Harry G. Summers, Jr., tạp chí Vietnam Magazine, số đặc biệt tháng  4/1995; và trang mạng TheHistoryNet.com trích đăng lại)


_______________
(1) Harry G. Summers, Jr. (1932-1999), tác gỉa bài báo, nguyên là  Đại Tá trong Quân Lực Hoa Kỳ. Ông từng phục vụ 2 nhiệm kỳ tại Việt Nam  trong thời gian chiến tranh. Trong thời gian từ 1966-1967, ông đã hai  lần bị thương trong lúc là sĩ quan hành quân của Tiểu Đoàn 1, Trung Đoàn  2 thuộc Sư Đoàn 1 Hoa Kỳ tại Việt Nam. Trở lại Việt Nam lần thứ 2 năm  1974, ông là trưởng phái đoàn Hoa Kỳ trong Ủy Ban Quân Sự Hỗn Hợp Bốn  Bên (một cơ chế được lập ra theo Hiệp Định Paris 1973) cho đến ngày  30/4/1975. Ông giải ngũ năm 1985 với cấp bậc Đại Tá. Năm 1988, ông là  chủ nhiệm sáng lập tạp chí VIETNAM, tạp chí của các cựu chiến binh Mỹ  tham chiến tại Việt Nam, xuất bản mỗi 2 tháng một lần. Ngoài ra, ông còn  là tác gỉa của nhiều sách viết về chiến tranh Việt Nam. Năm 1999, ông  đã qua đời sau một cơn đột qụy, thọ 67 tuổi.


(2) Pontius Pilate: Kẻ đã bán đứng chúa Jesus khiến Ngài phải chịu đóng đinh trên thập tự giá.


NỀN.png
KẾT CUỘC ĐẮNG CAY

TOÀN NHƯ CHUYỂN NGỮ

bottom of page