TRÍCH MỤC 6 CHƯƠNG IV, LƯỢC SỬ CSQG-VNCH
Giữa năm 1971, Cục Nghiên Cứu Hà Nội đã có một tàu tình báo kỹ thuật cùng loại với tàu của Bắc Hàn hoạt động trong vùng phía bắc biển Nhật Bản. Một phái khiển tình báo chiến lược sẽ từ miền Nam đến điểm hẹn để hướng dẫn, quản lý và điều động mọi công tác tình báo kỹ thuật mà phương tiện là chiếc tàu trang bị điện tử nói trên sẽ được đưa từ Bắc vào Nam.
Do một nguồn tin đồng minh, Ngành ĐB được biết tên của viên phái khiển tình báo là Phạm Đức đang sống trong vùng Gia Định. Do đó, việc bắt giữ tên nầy không mấy khó khăn. Trong khi chấp cung, hắn cho biết hắn sẽ gặp một người đàn bà đến từ Quảng Ngãi tại một công viên ở Chợ Lớn theo màu quần áo và hình dạng đã định, và sau cuộc gặp gỡ nầy, hắn sẽ làm việc trên một chiếc tàu có trang bị điện tử. Với lời khai của hắn, vấn đề đã được đặt ra là nếu để hắn đến và ngồi ở chỗ hẹn, hắn có thể đổi ý liều lĩnh chạy thoát để bị bắn chết hay ít ra gây báo động ầm ĩ? Người đàn bà đến từ Quảng Ngãi sẽ mang đến cho hắn chỉ thị, mệnh lệnh và dự án hành động nào? Người đàn bà nầy sẽ không đến nếu nhìn từ xa không thấy hắn ngồi đợi ? Trước bài toán không dễ có đáp số trên, Ngành ĐB đã chọn trong các Sĩ Quan của Ngành một người giống Phạm Đức nhất và thêm một chút hóa trang, cũng như quyết định chung quanh điểm hẹn tuyệt nhiên không cần nhân viên nào hỗ trợ vì sợ con mồi thêm sợ hãi mà tránh không vào rọ.
Đúng ngày giờ đã định, một người đàn bà đi vào công viên. Phạm Đức giả đang ngồi đợi trong bộ quần áo đúng như màu đã qui định. Bà ta trao cho Phạm Đức giả một giỏ xách. Phạm Đức giả một tay nhận giỏ xách, một tay nắm chặt cổ tay của bà ta. Một chiếc xe Jeep đã nhanh chóng trờ tới và bà ta được đưa lên xe một cách mau lẹ êm thắm.
Tại trụ sở Ngành ĐB, bà ta khai tên Nguyễn Thị Đẹp và khai được thuê đi Sài Gòn, đến Chợ Lớn để trao chiếc giỏ xách cho người đàn ông ngồi chờ, mặc quần xanh áo nâu. Bà ta cứ tưởng rằng đó là chuyện làm ăn chợ đen. Mặc dầu bà ta không biết gì để khai báo thêm, nhưng Ngành ĐB nhận định rằng lời khai của bà là sự thật vì Ngành ĐB thừa hiểu rằng tình báo cộng sản chỉ cần cử người trực tiếp gặp Phạm Đức và xác nhận Phạm Đức đã đến địa điểm hẹn, bình an vô sự, là chúng yên tâm và tiến hành kế hoạch sau đó. Do đó, việc cho bà Đẹp trở lại Quảng Ngãi là công tác hàng đầu mà Ngành ĐB phải thực hiện. Một phi cơ Air Việt Nam bí mật đưa bà Đẹp trở về Quảng Ngãi và đổi lại người con gái duy nhất của bà bị tạm giữ và bị đưa lên máy bay về Sài Gòn. Bà Đẹp được cán bộ phụ trách công tác của Ngành ĐB hướng dẫn rõ ràng về lời tường thuật phải nói nếu VC hỏi về chuyến đi Sài Gòn của bà. Con gái của bà là con tin và sẽ được mang trả lại cho bà trễ nhất là 10 ngày. Vì cô con gái nầy đang làm cho một tiệm kem ở thị xã Quảng Ngãi nên bà Đẹp được dặn dò là nói cho tiệm kem biết là cô ấy đi thăm bà ngoại bị bịnh. Về đến Sài Gòn, cô gái nầy được Thiếu Tá Nguyễn Thanh Thủy, Biệt Đội Trưởng Thiên Nga tiếp nhận và đưa đến một khách sạn đã được thuê sẵn ở đường Hai Bà Trưng, tầng 3. Tại đây, một Sĩ Quan Thiên Nga được giao trách nhiệm suốt đêm ngày làm bạn với cô ta và cô ta chỉ có đọc tiểu thuyết, xem truyền hình và đợi chờ ngày về…
Sau khi biết người đàn bà đã an toàn trở lại Quảng Ngãi, Cục Nghiên Cứu Hà Nội thỏa mãn điều kiện an toàn cho dự án công tác của họ nên tàu tình báo điện tử đã rời khỏi biển Quảng Ngãi đến Cầu Đá Nha Trang và trụ bám ở đây để truy tập mọi điện văn của Bộ Tư Lệnh Dã Chiến Hoa Kỳ đóng ở bờ biển Nha Trang.
Theo kế hoạch của Trưởng Ngành ĐB, một đoàn đặc nhiệm được gởi đến Nha Trang và sau đó đã nhanh chóng đổ ập xuống Cầu Đá bắt trọn ổ hải tặc điện tử. Toàn bộ thủy thủ đoàn và chuyên viên bị bắt cùng với chiếc tàu tình báo kỹ thuật đáng giá hàng triệu Mỹ Kim. Tất cả bọn họ đều mang căn cước giả với chánh quán và sinh quán tại làng Trí Thủy, Tỉnh Ninh Thuận, vốn là chánh quán và sinh quán của Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu. Điều nầy cho thấy Cục Nghiên Cứu Hà Nội đã tính toán rất khôn ngoan, vì họ dự trù nếu bị xét hỏi, những ngư phủ cùng quê với Tổng Thống chắc được cảnh sát hay hải quan nể nang hơn, ít bị tra soát hơn.
(Trích Mục 6 Chương IV Thành Quả Hoạt Động Của Ngành CSQG/VNCH, Trang 144 Lược Sử CSQG)