top of page
Banner edge

ĐÀO VŨ ANH HÙNG

LGT: Nhà văn Không Quân Đào Vũ Anh Hùng vừa qua đời ngày 18/2/2022 tại Richarson, Texas, hưởng thọ 79 tuổi.  Ông  tên thật là ĐÀO BÁ HÙNG, sinh ngày 5/3/1943 tại Hà Nội, viết văn, làm  báo từ năm 1960. Ông từng là Chủ biên Đặc san Đường Mây và Lý Tưởng của  Không Quân VNCH (1990-2000). Ông là tác giả của nhiều tập bút ký chiến  tranh kể về những kinh nghiệm chiến trường của một phi công trực thăng  mà ông từng tham chiến. Khoảng thập niên 1980 của thế kỷ trước, giữa  những tai tiếng của Mặt Trận Kháng Chiến Hoàng Cơ Minh bài viết “Vàng  Rơi Không Tiếc” của ông đã gây xôn xao dư luận một thời, mời quý bạn  cùng xem lại như một nén nhương tưởng nhớ ông.


****

“… Tôi lấy anh coi hai  lá thư vừa nhận được. Một từ anh bạn cùng đơn vị ngày xưa trên đường về  khu chiến ghé Tokyo viết vài lời thăm và từ giã. Ngạc nhiên và xúc động  biết bao nhiêu – Người bạn đã cùng tôi chiến đấu dưới cờ Quân Lực, cùng  tôi sống chết trong một con tàu giữa mây cao gió lộng trên vùng trời đỏ  lửa quê hương, lang bạt khắp nẻo đường đất nước. Người bạn mà tôi nghĩ  chỉ biết có “sì già đầm bồi” cùng những nàng kiều nữ!… Ngờ đâu anh đã  trở về và trên bước phản hồi cố quốc còn nghĩ nhớ đến tôi mà viết cho  tôi lá thư đầu tiên từ mười mấy năm quen biết. Thư anh cuối đoạn có lời  chào và ghi dòng chữ “Mai này chúng ta cùng về Việt Nam”. Lòng tôi  choáng ngợp niềm hãnhh diện. Tôi không có địa chỉ hồi âm. Tôi muốn viết  cảm ơn anh. Tôi muốn nhờ anh chuyển đến các anh chị em chiến sĩ lời thăm  chúc, một câu thâm tạ ngô nghê tầm thường của ngôn ngữ loài người.  Nhưng thôi, tôi đợi…”- (Giữ Lửa – Đất Mới, tháng 9, 1982)


Thư đó, không bao giờ được  viết và gửi đi như tôi bồi hồi tưởng sẽ có ngày. Giấc mơ kháng chiến  công thành, “về ôm lấy đất, hôn mê mẩn đất” đã vỡ tan, nát vụn, làm tim  chân thật của tôi cùng tim chân thật của biết bao người đớn đau vô kể.  Thật thương cho vận nước, tội nghiệp dân tôi…


Bạn xưa,


Từ cái ngày ô nhục phơi  bày phản phúc, tỏ lộ rõ ràng cái thủy chung đạo nghĩa lọc lừa của tình  chiến hữu đấu tranh, bạn xé bỏ lương tâm đem mảnh linh hồn bán cho Vu  Hích, tôi bàng hoàng và đau nhói. Không giận, mà đau. Vì tôi hiểu bạn và  vẫn thương mến bạn qua hình ảnh người Phi công lẫm liệt ngày xưa, ngày  chúng ta còn khoác chung màu áo, nắm tay nhau vào chốn đường mây sinh  tử. Không Quân chúng ta tình thì vẫn nặng, không phải thứ “Tình Bọ  Ngựa”, đang hoan hỉ cùng nhau bỗng dưng trở mặt vung dao tiện đứt đầu  bằng hữu. Nên tôi đau đớn thấy bạn nỡ bỏ anh em, nỡ bỏ bạn bè, bỏ rơi  liêm sỉ, vẽ mặt bôi râu cho người đẩy lên cái rạp phường chèo đóng vai  gã hề câm mang chức sắc triều đình Vu Hích làm trò riễu dở…


Bạn được người ban chức lớn, đầu năm có lá thư xuân gửi đồng bào chiến hữu, hô hào yểm trợ, phi  lộ bằng câu tự giới thiệu mình vừa từ chiến khu quốc nội trở ra nhận  công tác mới… Tôi đã không giữ được trang nghiêm khi đọc lá thư chúc Tết  của ông tân Tổng Vụ. Tôi rất muốn tin quả thực bạn vừa trở ra từ khu  chiến và rằng quả thực chính tay bạn viết lá thư thân mến gửi đồng bào  bằng giọng văn lãnh tụ. Tôi rất muốn sống lại cái giây phút bồi hồi rung  động của lần trông thấy hình ảnh bạn trong cuốn phim ngày Cương Lĩnh:  Bạn đi dép râu, đội nón tai bèo, khăn rằn quanh cổ chống gậy vào rừng đi  làm kháng chiến. Ngày đó tôi dậy lòng ngưỡng mộ và rưng rưng yêu mến  bạn đã cho tôi niềm tin cùng nỗi chan hoà danh diện. Nhưng bây giờ nghĩ  nhớ về bạn cùng cái tên Nguyễn Kim vừa đủ lạ, tôi thấy mình đắng cay  thương tổn và xấu hổ như chính tôi gian dối. Bạn béo trắng, vẽ râu trên  mép, bảnh bao xuất hiện giữa chốn quan chiêm, ngồi đứng đều khoanh tay  nghiêm túc khiến tôi không nhịn nổi cơn cười, nhớ lại ngày xưa bạn hay  dùng chữ “giả dạng bần tăng” để chỉ những tên bộ vó hiền lành nhưng gian  và dối…


Chuyện gian dối đời không  hiếm thiếu. Nhưng tôi thực khó khăn chấp nhận những dối gian lừa đảo đến  từ người mình yêu mến và dốc lòng tin cậy. Dối gian này lại quá lớn  lao. Nên chi nhìn ảnh bạn phương phi nhân dáng trên tờ Kháng Chiến và  đọc lá thư Xuân, tôi như có con trùng tanh nhớt bò trong cuống họng. Tôi  phải tin rằng thật tất cả những điều Phượng nói cùng tôi từ bấy lâu nay về bạn mà tôi bao giờ cũng tìm lời khoả lấp để dối lòng đừng xao xuyến  niềm tin. Những lúc đinh ninh bạn đang lội suối trèo non, gian khổ trên  đường kháng chiến, thì hỡi ơi bạn lại thong dong thả bước hào hoa trong  rực rỡ đèn màu, vẫn lại “sì già đầm bồi” cùng những nàng kiều nữ! Tôi  biết nói sao để lòng khỏi ngượng vì lỡ tuyên dương bằng hữu với người vợ  trẻ? Người vợ đã làm tôi cảm kích biết ơn, nhớ ghi mãi mãi lời nói của  nàng khi đọc lá thư bạn gửi, “Em biết tính anh, những gì thích muốn là  làm cho bằng được nên em không bao giờ dám cản ngăn, chỉ thầm lén khóc.  Em thực tình không muốn anh dốc đổ quá nhiều thì giờ và tim óc cho những  việc chỉ mang thêm phiền bực. Họ bội bạc với anh, vô ơn, đố kỵ, những  con người phản phúc… Thế nhưng Việc-Kháng-Chiến, anh không làm em cũng  bắt anh phải làm!” Ôi thật tội thương người vợ trẻ. Tội thương người vợ  lính đã chia xẻ cùng chồng cả một quãng đời khăn khó, đã trải qua những  truân chuyên hạnh phúc với tôi và biết thương yêu, biết cảm thông đời  lính, biết góp hy sinh cho đời chiến sĩ của chồng, biết khổ đau và tức  giận trước nỗi điêu linh tang tóc của quê hương mình bất hạnh. Người vợ  nhu mì thánh thiện từ tấm bé sống trong êm ái tình thương của gia đình,  nhởn nhơ hoa bướm thanh xuân với bạn bè, sách vở cho đến ngày biết yêu  tôi, biết làm vợ, làm mẹ… có bao giờ thấy biết rõ ràng mức độ hãi hùng  bi thảm của chiến tranh, nhìn được tỏ tường mặt ngang mũi dọc một thằng  Việt cộng? Thế mà cuộc xảy đàn tan nghé 75 đã khiến vợ tôi biết đau hận,  căm thù, biết khuyến nghị chồng góp công cho đại nghĩa.


Vợ tôi đã tin yêu thành khẩn, đóng góp kiên trì và thành khẩn. Cả những đứa con cũng được mẹ dạy  phải góp tiền yểm trợ, phải tiếp tay giúp bố làm công tác để có ngày về  thăm ông bà, nội, ngoại… Phần tôi, lá thư bạn gửi đã cho tôi chan hoà  rung động. Tôi hình dung ra toàn vẹn hình ảnh bạn tếu vui linh hoạt ngày  xưa chúng ta còn ở Phi đoàn. Những ngày đi biệt đội, nằm chờ phi vụ tản  thương đêm ở Pleiku, ở Ban Mê Thuột, hay ở Kontum trong ngôi biệt điện  bên bờ sông Dak-Bla ồn ào quấy nhộn với quân bài xập xám… Xa hơn nữa,  những ngày nắng bụi mưa dầm hành quân ở Tam Quan, Bồng Sơn của 1966,  1967 – đêm về ăn nhậu rong chơi ở Quy Nhơn – tôi còn là gã hoa tiêu mới  ngỡ ngàng về nước, ngồi ghế copil cho bạn, rông dài khắp ngả đường mây.  Tôi đã làm hoa tiêu phó cho thầy Hườn một thời gian dài đáng kể trong  tổng số giờ bay trên chiếc H-34 kềnh càng của Phi đoàn 215 Thần Tượng.  Chúng ta đã có cùng nhau bao nhiêu kỷ niệm, chia xẻ cùng nhau nhiều nỗi  sướng vui cũng như hoạn nạn, những lần chới với bên bờ sống chết, cạnh  vực hiểm nguy… Nên tôi đã bằng vào tình nghĩa ấy để đặt tin yêu nơi bạn,  không so đo, không nghi ngại, cho mình bổn phận phải tự giác đứng lên,  vội vàng tìm đến, dơ cao tay xin nhập cuộc.


Tôi nhập cuộc không đợi ai  mời gọi. Lòng hớn hở mừng vì bạn và tôi lại chung hàng ngũ cho tôi hối  chuộc tội mình quá nặng đối với quê hương, tẩy rửa niềm xấu hổ vì không ở  lại để chết cùng vận số hẩm hiu đất nước. Kiểm điểm phần đóng góp cho  Mặt trận, Phong trào từ những ngày đầu chưa mặc áo đoàn viên, tôi phải  giật mình kinh ngạc vì những thành toàn và những hăng say tích cực, đa  năng, mẫn cán đổ ra không tiếc, không dè xẻn nguồn năng lực cùng khối  nhiệt tình dành cho kháng chiến. Tôi chau chuốt niềm tin vững mạnh nơi  mình và say sưa truyền giảng cho người như kẻ thừa sai làm việc vinh  danh Chúa. Tôi đã đi những bước rất tự tin, cố dọn mình cao cả, khoan  dung nhìn những sai lầm, khuyết điểm, những vụng về, lơi lỏng là tất  nhiên phải có nơi một tổ chức mới hình thành nhưng lớn mạnh quá mau,  lãnh đạo chưa tôi luyện, thời gian cần đủ lượng để đi đến kiện toàn. Dầu  gì thì ngọn lửa cũng đã được đốt lên, phải giữ cho đỏ ngọn. Gió to góp  lại sẽ thành bão tố, bột đem quấy mãi cũng thành hồ, trăm cây chụm lại…

Lòng tôi tin như thế và mong như thế. Nhưng cái tin mong thành khẩn dù  lớn mạnh bao nhiêu cũng không đủ lực mù quáng trái tim tôi và khoan  lượng rộng rãi đến ngần nào cũng không dung được những điều dối gạt với  manh tâm quá độ. Không phải mãi đến sau ngày tan vỡ tôi mới nhận ra hay  nhìn thấy những điều gian dối, những âm mưu… Cuốn phim trình chiếu Ngày  Cương Lĩnh. Cái gọi là Chiến Khu Quốc Nội. Đài Phát Thanh Việt Nam Kháng  Chiến. Con số Mười Ngàn Quân. Những Bản Tin bịa đặt vụng về, ấu trĩ…  Tôi bảo lòng, thôi thì trong bước khởi đầu và lòng người đang bừng bừng  sôi nổi, sẽ lấp trùm tất cả những hớ hênh non kém. Rồi ra công sức chung  vào, mỗi người một tay bồi đắp, nước lã phải vã nên hồ, từ không sẽ  thành ra có. Thế nhưng từ buổi đại hội dựng cờ Chính Nghĩa, tôi nhận ra  không phải như lời ông Liễu, ông Chức lúc nào cũng nồng nàn xưng tụng  cùng tôi về một Hoàng Cơ Minh, con người cách mạng xứng vai lãnh tụ. Tôi  đã tổn thương, thấm thía tất cả nỗi bẽ bàng ngượng thẹn của một tay  buôn không biết chính mình có món hàng xấu giả, đem hí hửng chào mời, bị  khách mua sành sỏi ném phăng xuống đất, chỉ tay vào mặt. Làm sao diễn  tả nổi cảm giác đắng tê nhột nhạt trong tôi, khi Ross lạnh lùng từ chối  không tiếp ông Chủ tịch Mặt trận dự định về Dallas, nhờ tôi thu xếp cho  gặp nhà tỉ phú, “xin một lời tư nghị về Kháng chiến Việt nam”. Ross  Perot, cựu sĩ quan Hải quân Hoa kỳ, nhân vật tạo huyền sử của sáng lập  ra EDS – nơi tôi làm việc – của vụ giải cứu con tin ở Iran, của “On  Wings of Eagles”. Người đã bỏ tiền tài trợ cho cuộc đổ bộ trại tù Sơn  Tây, cố vấn tối cao về an ninh quốc phòng và cũng là Phụ tá Đặc biệt của  Tổng Thống Reagan về vấn đề MIA-POW tại Đông dương. Người đầy đủ thẩm  quyền để biết rõ ràng và biết tất cả về Mặt trận Kháng chiến của Phó Đề  đốc Hoàng Cơ Minh, “hơn cả ông Minh biết nữa…!”


Bạn xưa,


Tôi đã hiểu thêm ra, trong  trọn một buổi sáng đến mãi xế chiều ngồi nghe tâm sự anh bạn trẻ nơi  quán cà phê khu chợ Maubert dưới trời đẹp Paris một ngày hiếm hoi nắng  ấm. Để cũng rưng rưng đôi dòng nước mắt cảm thông, chia xẻ cùng người  chiến hữu nỗi mênh mang thống hận của khối tâm thành hiến dâng lầm lẫn.  Tôi đã cùng anh cạn chén cà phê như chia nhau uống lượng bồ hòn. Lòng  tôi dào dạt cảm thương anh và yêu và quý phục người cán bộ đấu tranh  sáng ngời phẩm chất cùng tác phong cách mạng. Anh cũng đã như tôi –  trong một cần thiết và giới hạn nào đó – đồng tình chấp nhận những tô  vẽ, những giả tạo, dấu che hay thủ đoạn… Thế nhưng bao sự kiện phơi bày  khiến tôi tung toé trong lòng hàng trăm câu hỏi, hàng ngàn nghi vấn,  không cần vận dụng đến khả năng suy luận cũng tìm thấy những trả lời làm  tôi chao đảo.


Những câu hỏi “Tại sao…?”  Tại sao Hải quân Trung tá Nguyễn Hữu Trọng đã không cùng “phái đoàn quốc  nội” trở lại chiến khu mà dứt bỏ ông Minh ngay sau ngày đại hội vinh  quang để về Thụy sĩ? Tại sao làm nổi chuyện thiên nan, đưa người hải  ngoại về lập ra khu chiến, lực lượng to lớn tới mười ngàn, mà phải nhờ –  mà tôi từ khước – lấy đem về tiền yểm trợ đồng bào Âu châu đóng góp,  chỉ vì một lý do “Pháp không cho chuyển tiền vàng ra ngoại quốc!” Những  người con cháu nào của họ Hoàng Cơ nắn giữ khối tiền đồng bào dành cho  kháng chiến từ bao năm qua, phần riêng cháu giữ, không gửi về ông cậu?  Tại sao cả một toa xe chất đầy quà tặng gồm thuốc tây trị giá của đồng  bào bên Ý gửi kháng chiến quân, trực tiếp qua Bangkok bị trả về bởi  không ai tiếp nhận? Tại sao Vụ trưởng Vụ Tiền lại dựng lên K-9 nắm quá  nhiều quyền, vượt trên Tổng vụ? Lý do nào ông Hoàng Cơ Định cố tình  quanh quẩn dựng lên lớp rào trở ngại để thoái thác đưa người tình nguyện  về chiến đấu dù họ đã bằng lòng điều kiện phải xuất tiền tự túc? “Tiền  bạc đồng bào đóng góp bên này chúng ta nhìn thấy quả nhiều nhưng đối với  nhu cầu trong nội địa chỉ như muối đem bỏ biển. Dấn thân này đáng quý  nhưng bây giờ Mặt trận chua cần thiết một người với khả năng như vậy.  Về, chỉ thêm gánh nặng cho anh em.” Tôi chưng hửng và nhanh chóng hiểu  ngay. Hiểu thêm một sự cười ra nước mắt, rằng ông Vụ trưởng xuất thân từ  trưởng giả, học trường tây, đến tuổi được cho xuất ngoại tìm bằng cấp  về ngồi cao trong bóng mát, chưa hề có lấy một ngày khoác ba lô súng  đạn, mang đôi giày lính đi vào nơi rừng bụi sình lầy, sống lấy một ngày  trong binh lửa quê hương… Thì làm sao rõ được giá trị hiếm hoi của người  lính bộ binh thám báo có trêm mười năm quân vụ? Bảo sao không đặt bày  ra thứ Bản Tin như “Bản Tin Quốc Nội” ca ngợi công lao phá địch của chị  cầm đầu tổ phụ nữ và thiếu nhi kháng chiến tại một làng ghi rõ địa danh  thuộc tỉnh Tuy Hòa có chồng Thiếu tá đang trong tù cải tạo. Thân danh  ông Thiếu tá ở một làng quê, nếu sự này có thật, thì quả tình giá trị  bản tin là lời chỉ điểm cho Việt cộng bắt người vợ đi tù không lầm lẫn!

Tôi phập phồng chờ đợi… Nhưng có bao giờ ngờ được và đợi chờ giây phút  ngẩn ngơ chết lặng trước cơn đá nát vàng tan của cuộc biểu dương thô bạo  Tình-Nghĩa-Lý-Thông và hoảng kinh chứng kiến gã lang băm học làm thầy  thuốc cầm con dao cùn, bẩn, nhiễm trùng, vụng về cắt bỏ cái gọi là ung  nhọt trên phần yếu nhược của Đứa Con Kháng Chiến! Đứa con chung cưng quý  của bao người chắt chiu kỳ vọng đã trở thành hoại thể vì thứ lang chết  tiệt, thủy chung nhân nghĩa tài năng đều nhẹ hẩng nhưng túi tham thì quá  nặng.


Đọc truyện xưa nói đến  những cơn tức uất thổ ra từng ngụm máu rồi thét lên chết ngất, tôi cho  người kể chỉ đặt bày. Nhưng tôi, chính tôi đã quặn cơn đau của  tội-lỗi-người-làm-mà-ta-phải-chịu. Đã sôi hừng hực từng cơn bi phẫn bốc  tận đỉnh đầu, mồ hôi vã đổ, run rẩy và nghe được từng cơn lại từng cơn  nhộn nhạo nong nóng chảy râm ran trong bụng. Tôi đã đổ ra từng lượng máu  trong bao tử và giật mình kinh sợ. Tôi nhủ lòng mình, tôi hãy quên tất  cả, hãy coi như bất hạnh này là điều may mắn vì xảy ra quá sớm và tham  vọng xấu xa kia dầu sao cũng đã lộ bày cho người người rõ mặt. Vợ tôi đã  ứa ra những giọt nước mắt hiền lành thương tủi và thở dài nhẫn nhịn khi  nghe tin đổ vỡ. Nàng quá đỗi thương tôi, chỉ buông câu hỏi sao anh nỡ  dấu, không cho em biết sớm? Câu hỏi sẽ sàng nhưng tôi nghe váng động và  từng lượng máu lại râm ran đổ tràn trong bao tử. Trời hỡi làm sao tôi nỡ  xé tan hay vò nát nuột nà mảnh lụa niềm tin vợ tôi đã dệt bằng thứ tơ  óng đẹp và vô cùng bền chắc của tấc lòng đôn hậu gửi trao cho kháng  chiến? Tôi biết biện giải thế nào cùng tất cả những người đã tín cẩn mến  thương tôi, góp phần không tiếc không dè dặt như tôi đã mến yêu tin cậy  bạn, dơ tay xin nhập cuộc?


Tôi đã trải qua những giây  phút bồi hồi, sướng vui phơi phới của kẻ đi reo rắc niềm tin và đón  nhận niềm tin từ những tâm hồn chân phác biết yêu quý quê hương chung  một cách. Tôi đã đi không biết mệt trên những đoạn đường gai góc để vén  thu góp nhặt từng mảnh tin yêu chắp lại làm nên sức mạnh cho Mặt Trận và  những đồng tiền cảm kích dưỡng nuôi hoa kháng chiến nở tươi trong vườn  hồng dân tộc. Những đồng tiền, cả vòng vàng nhẫn cưới gửi trao cùng cầu  mong tâm ước một mai kháng chiến công thành, quê hương giải phóng… Đây  là những đồng tiền thẫm sũng mồ hôi khó nhọc của đời cầu thực tha  phương. Tiền nhận từ bàn tay khô héo của bà mẹ già nua sống buồn phiền  lạc lõng nơi đồng đất nước người muốn mau chóng trở về chết trong lòng  đất quê nhà yêu dấu. Của em bé thơ ngây nhịn miếng cơm chim mong về  hưởng lại tình thương nội ngoại. Của con mong gặp lại cha, vợ mong gặp  lại chồng. Của những người sầu héo nhớ thương người, bạn bè mong cứu bạn  bè tù tội trong gông cùm cộng sản… Những đồng tiền mồ hôi nước mắt đã  mất oan khiên không ai đòi lại nhưng niềm tin tội nghiệp bị phỉnh lừa  phải coi như nợ và nợ này phải trả. Nợ truyền tử lưu tôn, không trả đời  này thì đời con, đời cháu. Ôi biết làm sao nói cho cùng cạn nỗi mênh  mang thống hận của kẻ cầm vàng tiếc uổng công lao, nửa đường rơi mất?


Cầm vàng mà lội qua song

Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng…


Biết bao người cũng như  tôi đã mất? Mà chao ơi lại mất quá nhiều. Tôi đã mất bạn, và coi như  mất, người lính Nhảy dù Lê Hồng của độ nào còn bôn ba khắp nẻo chiến  trường đỏ lửa quê hương. Tôi vẫn hằng ôm giữ hình ảnh Trung tá Lê Hồng  một buổi trưa nắng cháy trên bãi đậu phi trường Trảng Lớn mịt mù bụi đỏ.  Người sĩ quan trong bộ hoa dù chiến trận, đeo giây ba chạc, lom khom  trải tấm bản đồ trên mui chiếc Jeep, thuyết trình cho tư lệnh Lữ đoàn…  Giờ này Lê Hồng đang ở nơi nào cùng vợ và con? Có bao giờ gặp lại ông  Bùi Đức Lạc và những anh em Nhảy dù “đánh thuê cho Mỹ”? Sao ông Thi  không nói? Sao ông Tuyển không nói Lê Hồng đang ở nơi đâu?


Bạn xưa,


Đã mấy năm qua tôi bưng  tai nhắm mắt, cố giữ mình mù điếc nhưng vẫn kinh động bởi tiếng phèng la  chập choẽ của đám người Vu-Hích-Kháng-Chiến làm cuộc rước đèn ồn ào và  khó chịu. Đám rước của những ông đồng bà bóng với đầy đủ trống chiêng cờ  quạt diễn ra dưới đường hầm tăm tối, mỗi người cầm một bó đuốc dơ trước  mặt, mê muội bước đi, miệng không ngớt hò reo mừng rỡ đã trông thấy mặt  trời chính nghĩa từ ánh lửa lù mù ngọn đuốc và cứ thế đi quanh quẩn  quẩn quanh rồi lại quẩn quanh quanh quẩn trong cái đường hầm tăm tối.  Tôi đã tình cờ được người nài ép phải xem cái gọi là “Thông điệp” của  ông Chủ tịch “gửi anh em chiến hữu” kỳ đại hội năm kia ở Los, nội dung  có hai điều chú ý: Thứ nhất, tuyên dương bốc thổi thành phần đoàn viên  cán bộ gọi là thế hệ trẻ trung và mới. Thứ hai, đã nặng lời thoá mạ  những ai không ủng hộ mình là “Dư Luận Vô Tư Cách”! Điều một làm tôi ghê  sợ và điều hai, phẫn nộ. Con người có tham vọng làm lãnh tụ cả một mặt  trận đấu tranh dựa vào quần chúng sao lại có thể buông ra lời hằn học  thô lỗ ấy? Hạnh kiểm cùng nhân cách con người như thế làm sao đủ bản  lãnh chế ngự được cơn xúc cảm của mình trước các vấn đề to lớn? Như tôi  đã thấy, nhiều ngươi đã thấy mà ngán ngẩm trước một ông Hoàng Cơ Minh  không đè nén nổi sướng vui nhảy múa trong lòng, ngơ ngáo đến thất thần  trước nhiệt nồng đón tiếp, hoan hô, hào quang rực rỡ vây bủa lấy mình  trong Đại hội Chính Nghĩa và đã mê sảng đưa ra con số “tào lao”. Con số  của một đêm gần ba giờ sáng, cú điện thoại từ Paris dựng đầu tôi giậy,  dặn đi dặn lại tôi rằng phải làm sao liên lạc nói cùng “anh Chín” liệu  lời tuyên bố cho khỏi xảy ra sự “ông nói gà, bà nói vịt”, bởi vì “Bên  này tôi lỡ trả lời báo chí rằng quân kháng chiến nằm trong nội địa lên  tới mười ngàn!” Tôi gạt phăng đi, coi lời căn dặn chỉ là thứ chuyện tào  lao từ tên bạn tào lao, luôn thích làm ra mình quan trọng. Nào tôi dám  nghĩ ông Chủ tịch lại đem con số mười ngàn quân nhảm nhí ấy nghiêm trang  tuyên bố trong đại hội!

Tôi thương tội những người  yêu nước thành tâm cho đến giờ phút này vẫn còn hăm hở nhập bầy cùng đệ  tử Tinh Tú phái, bước theo thầy mà chẳng rõ sẽ về đâu trên con đường tà  khuất, bảo sao nghe vậy, đi ngược hướng đi dân tộc, kể cả bảo phải vui  mừng nhảy múa trên nỗi đau thương tang tóc của toàn dân, coi Tháng Tư  Đen bi thảm là ngày “Quốc Khánh” để ăn mừng và bày đặt đưa ra giải  thưởng tặng Phan Nhật Nam đang hấp hối trong trại tù Việt cộng. Hãy nhìn  bìa sau cuốn sách in cưỡng đoạt tác quyền để thấy ẩn ý rập khuôn trò  tiểu xảo cộng sản đã trâng tráo bày ra trước mặt người dân Saigon ở lại.  Dân Saigon đã thờ ơ trước những ngày lễ lạc của bạo quyền nhưng bảo  nhau đổ xô ra đường phố trong những ngày lễ lớn thực của mình như Giáng  Sinh, Nguyên Đán, hoa đăng tấp nập như thời vàng đã mất. Lũ gian manh đã  lợi dụng dịp này để phô trương lường gạt người ngoài, đem biểu ngữ căng  trên các đường phố tưng bừng náo nhiệt Saigon. Biểu ngữ “Mừng Kỷ Niệm  Ngày Thành Lập Quân Đội Nhân Dân Anh Hùng” của chúng thực sự đã qua cả  tháng trước trong sự lạnh nhạt của dân chúng miền Nam. Thành ra, nước  Văn Lang không có ngày Tổ chết nhằm Tháng Tư Đen để bầy con hiếu thảo ăn  mừng - và không có một ngày lịch sử nào khác nằm trong tháng Việt cộng  tổ chức ăn mừng Đại Thắng Mùa Xuân - thì người ta cũng phải đẻ ra một  ngày, như ngày Cá Tháng Tư chẳng hạn, để làm Ngày Quốc Khánh! Còn như  cái phần thưởng cho Phan Nhật Nam đã khiến nhiều người nóng mặt, hãy làm  ơn nói dùm Mười Cúc thả ngay người tù khí phách và cho đi đoàn tụ - để  xem Nam phản ứng thế nào về cái giải thưởng mỉa mai dơ dáng đó?


Có một câu trong Cổ Ngữ,  xem như gương soi tỏ dung nhan người lãnh tụ, “Tâm có chính thì hành vi  mới khỏi tà khúc. Chưa có người nào hành vi phẩm hạnh không đoan chính  mà họ có thể yêu nước được”! Những người anh em không muốn nhận chân sự  thật, đã dối lòng chỉ vì tự ái, vì muốn tỏ bày rằng ta tranh đấu kiên  trì, lập trường vững chãi, cao vợi tinh thần, hay đã trúng phải thứ sinh  tử phù âm độc của Thiên Sơn Đồng Mỗ? - Những người được vồn vã tuyên  dương, tán tụng là thành phần cán bộ trẻ trung có tinh thần cách mạng  đấu tranh mới. Như Võ T., như Kh., như cô bé T. Nh., tuổi trẻ, nhiệt  thành và giàu năng lực, tôi đã hết sức yêu vì bietá nhìn ra bổn phận,  náo nức muốn dự phần bởi chưa từng đóng góp máu xương cho cuộc chiến đấu  thảm sầu trên đất nước. Giờ đây những người em tôi thương mến và đã dắt  dìu, coi tôi như kẻ lạ - hay nói cho rõ ràng, như họ đã được dạy cho  định nghĩa rõ ràng - những người đã ly khai hay không theo hoặc chống  đối “Mặt Trận”, đều là những Việt gian, phản động!… Ai đã rập khuôn  đường lối luyện người của cộng sản, đem những mầm dân tộc tươi xanh đó  đi nhuộm thành hung đỏ, nhét nhồi những giáo điều sắt máu để biến họ  thành những con thiêu thân cuồng tín, một chiều, vô tình nghĩa, biết nói  trơn tru những từ ngữ cách mạng, đấu tranh, hy sinh, yêu nước và học  thuộc lòng cái châm ngôn “cứu cánh biện minh phương tiện” để hồn nhiên  và hãnh diện trước tất cả những hành vi sai trái?


Họ đã được dạy phải tôn  vinh lãnh tụ như viên ngọc trân quý của cách mạng, linh hồn của tổ chức,  cần hết sức giữ gìn, “không thể hy sinh phí phạm và vô ích như những  Nguyễn Thái Học, Phạm Hồng Thái, Võ Đại Tôn… làm vỡ đổ công trình cách  mạng!” Đồng thời cũng học loanh quanh lý luận “Chủ tịch Hoàng Cơ Minh  cũng chỉ là một nhân sự trong Mặt Trận. Cá nhân không đáng kể và có thể  thay thế được. Nhưng lý tưởng cách mạng theo đuổi cuộc đấu tranh cứu  nước mới là tối thượng, phải duy trì và quyết tâm đi tới…” Do đó tôi  không lạ khi có đoàn viên nghe tin Hoàng Cơ Minh bị chết, đã nhảy dựng  lên hậm hực. Và tôi cũng chẳng ngạc nhiên nếu mai kia cục diện Đông  Duơng biến chuyển, Việt cộng bị áp lực phải thương thảo với thành phần  kháng chiến Việt nam, sẽ chỉ nhìn nhận và đòi cho bằng được MTQGTNGPVN  vào bàn hội nghị, có hay không có Hoàng Cơ Minh cũng chẳng phiền. Ngày  đó tới, đoàn viên phải vô cùng hoan hỉ bởi Mặt trận mình được Việt cộng  xem là chính thống, nhưng tôi thì khiếp sợ cho cái tương lai nhìn thấy  hồn ma xưa - Mặt Trận Giải Phóng Việt Nam - đội mồ sống dậy!


Những người cán bộ trẻ, thành phần cách mạng tươi mới đó, như Võ T., đã được đài thọ vào tận  chiến khu học tập, thấy mình quá đỗi trưởng thành, được dạy cho ăn nói,  tập tành những tác phong cách mạng, thuộc lòng chủ trương và đường lối  Mặt Trận vẽ tô ra, trở về làm việc toàn thời, được trả tiền công tác,  được đi đó đi đây, họp hành, diễn thuyết, được đặt ngồi cao trên sân  khấu cho mọi người vỗ tay, đề cao, tán tụng, hoan hô vinh dự… Đến ai kia  cũng còn đắm đuối thứ men say mê mẩn ấy, thì “giai cấp trẻ” nào cưỡng  nổi lòng không xao động trước những vinh quang to lớn đặt vào tay? Làm  sao Võ T. dám khước từ như tôi đã giữ mình tỉnh táo khước từ những việc  làm đồng loã, không bằng lòng can dự những mưu toan, những liên quan  tiền bạc, kinh tài, những đẩy đưa ngon ngọt bằng bạc tiền và chức vụ khi  còn trong K-9…?


Làm sao Võ T. dám đưa tay  gỡ bỏ cái vòng hoa mỹ lệ tròng quanh cổ để thành tâm thú nhận về những  cuốn băng Việt Nam Kháng Chiến sau này xuất xứ từ đâu? Tôi nghĩ bạn là  người phải biết rõ hơn tôi về số phần non yểu của cái đài phát thanh  thuê mượn ấy. Cái phương tiện có thì quý hoá, không thì cũng chẳng ai kỳ  kèo đòi hỏi cho bằng được. Đồng bào chỉ cần thấy thực tâm, thấy cố sức  làm và làm chuyện thật. Việc gì phải đôn đáo gọi tôi nhờ cậy làm dùm  những cuộn băng kháng chiến, “Làm trọn mỗi kỳ từ A đến Z để anh em bên  ấy chỉ việc cho vào máy phát. Anh em mình không ai có khả năng viết lách  cùng kỹ thuật dựng một chương trình. Lại thêm vấn đề sinh tử là địch  lùng tìm, anh em phải di chuyển luôn luôn, một ngày phát thanh được vài  mươi phút cũng là một kỳ công đáng kể…” Tôi từ chối. Từ cái ngày nào xa  lúc lắc, mà mãi tới bây giờ người ta vẫn rao lên, vẫn ăn mừng ngày thành  lập được ba năm, rồi được năm năm đài Phát thanh Việt Nam Kháng Chiến,  “phát thanh đều đặn và liên tục không một ngày ngưng nghỉ. Ngày phát 8  lần, mỗi lần một tiếng với bài viết dài 25 trang giấy” và đưa ra những  con số gớm ghê chính xác tính ra bao nhiêu ngày, bao nhiêu giờ, bao  nhiêu phút và bao nhiêu triệu chữ trên bao nhiêu dặm dài giấy viết! Tôi  thực thà khâm phục những con người kháng chiến toàn năng đã làm nên  những việc phi thường trong những điều kiện cực cùng vất vả và khăn khó.  Còn tôi, phải thú thật rằng mặc dầu ở trên đất Mỹ dồi dào phương tiện,  có khả năng, đã từng thực hiện những chương trình phát thanh tiếng Việt  tại địa phương mỗi tuần lễ một lần, mỗi lần chỉ một giờ thôi, không một  tên Việt cộng nào lùng bắt, thế mà cũng không sao giữ được cho Tiếng Nói  Việt Nam phát thanh đều đặn và liên tục…


Bạn xưa ơi, tôi thật quả  có mừng vì đã không ở lại nhận phần chia cháo lú trộn với đường ngon mật  ngọt đưa lên miệng sì sụp khen ngon cùng đám người Vu-Hích (*). Tôi coi  lời thoá mạ cái “dư luận vô tư cách” mà ông Hoàng Cơ Minh khinh mạn  nhắm vào tuyệt đại đa số người Quốc gia đầy lòng độ lượng, như tiếng la  rồ dại của kẻ cầm đầu đám rước quanh quẩn rồi lại quẩn quanh đi mãi dưới  đường hầm tăm tối. Tôi hiểu được cái tâm trạng nao núng tuyệt vọng của  một con người xa đồng loại, tự mình đánh mất tự do cao quý của mình,  không dám thảnh thơi đi lại, thong dong hít thở khí trời trong mát, đã  hoảng kinh kích thích khi nghe tiếng người cười nói bên ngoài mà mình  không thấy lối ra nhập cuộc, điên cuồng thoá mạ để nghe chính tiếng mình  cho được an tâm trước cái hoang vu rùng rợn của kẻ sợ ma đi lạc giữa  vùng mộ địa.


Bạn xưa,


Bây giờ đã sắp mùa Xuân,  lại thêm một Tết tủi buồn đời lưu lạc. Tôi ngồi chiêu niệm quê hương và  buồn ủ dột nghĩ đến dặm đường thăm thẳm đưa ta về quê cũ. Tôi nhớ những  ngày xưa. Nhớ anh em, người thân, bằng hữu. Nhớ những cánh chim ta đã  họp đoàn. Những ngày óng ả Nha Trang bạn dắt dìu tôi bay tập… Tự nhiên  tôi nhớ bạn lao đao cùng tất cả những gì mình có cùng nhau trên mảnh quê  xưa mù mù khuất nẻo. Và tôi dạt dào ao ước một ngày ta gặp lại nhau  trong tay bắt mặt mừng bằng tình cũ nghĩa xưa đẹp đẽ chắc còn đủ lượng  cho ta đừng thấy ngỡ ngàng xem nhau như kẻ lạ. Tôi thiết tha nhớ và mong  gặp bạn. Chúng ta sẽ ngồi đối diện nhau cho tôi được dịp nhìn sâu vào  mắt bạn. Và bạn sẽ nói một lời đầm ấm nhưng là lời thầm lặng không phải  nói cùng tôi. Mà nói với lương tâm bạn bằng lời trong trắng. Nói thật  thà với các anh em mình chết cho đất nước. Như Vượng, như Sinh, như  Cung, như Tích… Nói nghiêm trang cùng những bạn chúng mình đang tù ngục  thảm thương vẫn hao mòn ngóng đợi anh em về giải phóng. Nói hết sức  thành tâm cùng những linh hồn u uất của anh em đã trở về và chết hẩm hiu  nơi đất nước người như cái chết của Phùng Tấn Hiệp, của Đại tá Tư. Nói  một lời lương thiện với Ngô Chí Dũng, với Trần Thiện Khải, với những anh  em bị bỏ rơi phũ phàng trên đất Thái.


Và nếu như tình nghĩa anh  em, bạn bè, đồng đội không làm bạn quan hoài, thì bạn ơi hãy thì thầm mà  nói lời riêng dốc cạn tình phu phụ cùng vợ và con yêu dấu đầy thương  tội đã vùi thân nơi biển cả trên bước đường khổ nạn kiếm tìm chồng, tìm  kiếm tự do. Bạn hãy thiết tha, thành khẩn, trang nghiêm như bạn đã thề  nguyền cùng đất nước, với tất cả thiêng liêng trong sâu thẳm đáy lòng,  rằng bạn thật tâm kháng chiến, bạn không biếi dối lừa và đồng loã dối  lừa. Kháng chiến này có thực.


Đào Vũ Anh Hùng


NỀN.png
bottom of page