TÂM TÌNH
TÂM TÌNH CỰU SVSQ & HẬU DUỆ
NHỮ ĐÌNH TOÁN (Hồi ký)
Cuốn phim tài liệu “The Last Days in Vietnam” (Những Ngày Cuối Cùng ở Việt Nam) của đạo diễn Rory Kennedy, một hậu duệ của dòng họ Kennedy, thực hiện kể về những ngày cuối cùng của cuộc chiến Việt Nam vào tháng Tư năm 1975. Trong phim có cảnh hỗn loạn của những ngày cuối cùng ở Sài Gòn trong đó có cảnh hàng ngàn người đang tìm cách trốn thoát khỏi miền Nam bằng mọi cách trước khi quân cộng sản tràn đến. Tôi không nằm trong số những người “may mắn” ra đi trong những thước phim đó, nhưng hình ảnh này đã gợi lại trong tôi ký ức về những ngày cuối cùng của chính mình trước khi rời khỏi Sài Gòn theo chương trình H.O.
Trong phim “The Last Days in Vietnam” có một cảnh thật cảm động. Khi chiếc chiến hạm chở đồng bào di tản đến gần bờ biển Phi Luật Tân, mọi người Việt, gồm cả quân và dân, đứng trên boong tàu đã nghẹn ngào hát bản quốc ca VNCH lần cuối cùng trong khi lá cờ vàng ba sọc đỏ từ từ hạ xuống. Tôi đã nhìn thấy những khuôn mặt đẫm lệ đang cất cao lời hát “Này công dân ơi, quốc gia đến ngày giải phóng…”. Cảnh tượng đó làm cho tôi nhớ đến những ngày ở Bangkok, Thái Lan, trong khi chờ đợi làm thủ tục nhập cảnh vào Mỹ. Chúng tôi được cho xem một video phim tài liệu về cuộc diễn hành Ngày Quân Lực ở Sài Gòn trước 1975. Lúc đó, lần đầu tiên sau mười sáu năm tôi mới được nhìn lại lá cờ vàng, dù chỉ qua màn ảnh nhỏ thôi mà tôi đã xúc động rưng rưng muốn khóc, nói gì những người trên chiếc chiến hạm kia…
Vào giữa thập niên 1980, ở Sàigòn và có lẽ ở cả nhiều nơi khác tại Việt Nam, đã có những tin đồn rằng, những cựu tù nhân chính trị cộng sản từng bị bắt đi “học tập cải tạo” từ 3 năm trở lên, sẽ được phép xuất cảnh đi định cư tại Mỹ theo một sự thỏa thuận giữa Hoa Kỳ và Việt Cộng.
Tôi cũng như các bạn cựu tù khác rất phấn khởi trước tin đồn này. Mọi người hy vọng nhờ đó có thể thoát ra khỏi một cảnh sống tù túng đầy rẫy những âu lo có thể bị bắt lại bất cứ lúc nào. Hầu hết các cựu tù cải tạo sau khi được thả về đều rất chật vật trong cuộc mưu sinh. Họ hầu như không thể xin vào làm việc ở bất cứ một cơ quan nhà nước nào. Vào thời điểm đó có rất ít cơ quan tư nhân nên một số phải sống bằng nghề đạp xích lô, chạy xe ôm, buôn bán chợ trời, hoặc về quê làm ruộng, làm rẫy, v.v… Cho nên, tin đồn này đã như một cái phao cứu sinh, một niềm hy vọng giúp họ được đổi đời, dù chưa biết cuộc sống mới ở nơi xứ lạ sẽ như thế nào, nhưng ai cũng nghĩ chắc chắn sẽ được hít thở một bầu không khí tự do.
Cá nhân tôi, sau gần bảy năm bóc lịch ở trong nhà tù Chí Hòa mới được thả về. Tôi bị bắt vì bị ghép vào tội “ngụy quân, ngụy quyền trốn học tập cải tạo” mặc dù mình chẳng hề trốn tránh đi đâu cả. Do lệnh “trình diện học tập” dành cho các sĩ quan cấp đại úy quân đội và cảnh sát không cùng một ngày nên bọn “cách mạng ba mươi” vì muốn lập công đã chỉ điểm cho an ninh phường đến nhà bắt tôi vì tình nghi tôi là một đại úy trốn trình diện học tập. Mặc dù tôi đã giải thích vì tôi là đại úy ngành cảnh sát chưa đến ngày trình diện, nhưng vì chủ trương của VC là “thà bắt lầm hơn bỏ sót” nên tôi vẫn bị chúng bắt đưa vào giam ở khám Chí Hòa.
Sau gần bảy năm “nằm ấp” ở Chí Hòa, tôi đã được trả tự do. Nhưng dù được trả tự do, cuộc sống hàng ngày của tôi cũng chẳng được tự do. Hết trình diện lại báo cáo, hết họp tổ đến họp phường; lúc nào cũng nơm nớp lo sợ bị công an hạch hỏi. Vào mỗi thứ hai hàng tuần, tôi phải đến trình diện cái gọi là “Ủy Ban Quản Lý Người Học Tập Cải Tạo Trở Về” để báo cáo những công việc mình đã làm trong tuần. Báo cáo này phải được ghi chép vào một cuốn sổ trình cho tên cán bộ chủ tịch ủy ban ở Phường. Tuy nhiên, tôi chỉ báo cáo một cách chung chung những công việc hàng ngày. Như, buổi sáng đưa con đi đến trường, buổi trưa đến trường đón con về, thời gian còn lại là những công việc lặt vặt như dọn dẹp nhà cửa, rửa chén, lau nhà, dạy kèm con học, hay phụ vợ buôn bán lặt vặt mưu sinh (bán chợ trời), v.v… Nghĩa là toàn những công việc linh tinh, vô thưởng vô phạt.
Có lẽ việc báo cáo của tôi như vậy, có cũng như không, nên khoảng hai tháng sau, tên cán bộ phụ trách thay vì bắt tôi phải báo cáo mỗi tuần, hắn đã ra lệnh cho tôi chỉ phải báo cáo mỗi tháng một lần. Thế nhưng, hàng tháng tôi vẫn bổn cũ soạn lại, vẫn báo cáo công việc hàng ngày chẳng khác gì những sinh hoạt thường nhật mà tôi đã báo cáo trước đó. Sau mấy lần như thế, có lẽ thấy báo cáo của tôi chẳng khai thác được gì, nên một hôm tên cán bộ này đã nói từ nay tôi không phải trình báo cáo nữa. Tuy nói thế, nhưng hắn cũng thòng thêm câu, “nhưng anh có thể đến báo cáo – bất cứ khi nào – có gặp những việc bất thường”. Mặc dù hắn đã ra lệnh như vậy, nhưng tôi chẳng bao giờ trở lại gặp hắn.
Khoảng hai năm sau, để chuẩn bị cho tôi được “xả chế, trả quyền công dân”, tôi phải dự một buổi họp tổ dân phố để họ lập biên bản trình lên Phường, lên Quận. Xui cho tôi là cái tổ dân phố ở khu nhà chị tôi mà tôi đang tạm trú có nhiều cán bộ VC và tổ trưởng lại là một tên cán bộ phường. Lý do vì khu vực này trước đây là khu có nhiều nhà của những sĩ quan, viên chức chế độ cũ đã di tản năm 1975 nay bị bọn VC chiếm ngụ. Trong buổi họp, một tên cán bộ đã phê bình tôi không đi họp tổ dân phố nên họ không biết gì về tôi để báo cáo. Do vậy, chúng đề nghị xin hoãn một thời gian để chúng tìm hiểu trước khi có ý kiến. Sau buổi họp, có người đã chỉ cho tôi, muốn được “xả chế” thì phải biết cái “thủ tục đầu tiên” (tức tiền đâu hay đâu tiền) cho tên tổ trưởng dân phố. Biết vậy, nên tôi đã phải lo lót cho tên tổ trưởng để có một cái biên bản khác tốt hơn.
Sau đó, để tránh bị làm khó dễ và bị ép đi kinh tế mới, tôi đã xin làm thiện nguyện viên cho Hội Chữ Thập Đỏ (tức Hội Hồng Thập Tự, theo cách gọi của VC). Vào đầu thập niên 1980, mọi sinh hoạt của người dân vẫn còn bị VC kiểm soát chặt chẽ chứ đừng nói gì với những người cựu tù cải tạo. Đó là lý do tôi phải xin làm việc bán thời gian (nửa ngày) cho Hội Chữ Thập Đỏ không lương, chỉ thỉnh thoảng được cấp cho một ít nhu yếu phẩm, để có tấm lá chắn làm việc cho nhà nước. Nửa ngày còn lại tôi phụ với vợ buôn bán quần áo cũ ở chợ trời An Đông và dạy kèm thêm Anh Văn cho mấy em học sinh ở gần nhà. Nhưng việc dạy học của tôi cũng chẳng được lâu, một hôm tôi đang dạy học thì tên công an khu vực đến hỏi tôi có giấy phép dạy học của Phòng Giáo Dục Quận không. Dĩ nhiên là tôi không có. Sau đó, vì không muốn bị rắc rối thêm, tôi đành phải dẹp cái lớp học này.
Khi những tin đồn về việc tái định cư các cựu tù cải tạo lan truyền ở Sàigòn, tôi và các bạn tù rất náo nức hy vọng. Mọi người ai cũng mong đó là sự thật để được thoát ra khỏi cảnh tù túng dưới chế độ cộng sản. Biết bao nhiêu những tin đồn được rỉ tai nhau hàng ngày chẳng biết hư thực thế nào. Nơi phát xuất ra những tin đồn loại này nhiều nhất là ở bãi cỏ công viên phía trước Sở Ngoại Vụ Thành phố (tức Bộ Ngoại Giao VNCH cũ), phía trước Dinh Độc Lập, gần nhà thờ Đức Bà. Thỉnh thoảng tôi cũng đến đây để nghe ngóng tin tức. Ở đây, các anh em cựu tù thường tụ tập thành từng nhóm để bàn tán những tin tức thu lượm được. Vì không có một thông cáo chính thức nào về chương trình này, nên những tin đồn tha hồ được thêu dệt. Có tin việc ra đi này đáng lẽ đã được thực hiện từ trước ngày 30-4-1975, giống như cuộc di cư của đồng bào miền Bắc sau hiệp định Genève 1954. Cũng có tin việc ra đi này để đổi lại, Hoa Kỳ sẽ nới lỏng cấm vận cho Việt Cộng và từ từ sẽ tái lập bang giao. Thậm chí còn có tin đồn, các cựu tù khi đến Mỹ còn được truy lãnh lương tính từ năm 1975 cho đến nay. Mặc dù đa số đều nghĩ, đó chỉ là tin vịt, nhưng cũng có một vài người vẫn nuôi một hy vọng hão huyền rằng biết đâu đó là sự thật để tự an ủi mình.
Mãi đến khoảng giữa năm 1989, chương trình tái định cư các cựu tù cải tạo sau được gọi là chương trình H.O. mới bắt đầu chuyển động. Tuy nhiên vẫn không có một thông cáo chính thức nào về việc này cho đến khi có một số người bổ túc hồ sơ bảo lãnh (ODP) mới biết mình đã được chuyển vào danh sách HO1, HO2... Mặc dù vậy, mọi người vẫn còn bán tín bán nghi. Đa số vẫn còn dè dặt chưa dám xúc tiến việc nộp hồ sơ vì chỉ sợ bị gài bẫy, rồi tiền mất mà tật mang, nghĩa là vẫn chẳng được đi đâu cả. Chính vì biết tâm lý này nên VC đã lập ra cơ quan Trung Tâm Dịch Vụ Xuất Cảnh để thâu gom những dịch vụ về việc xin xuất cảnh theo diện cựu tù cải tạo. Trụ sở của trung tâm này nằm trên đường Võ Tánh, đối diện ngay cổng Bộ Tư Lệnh CSQG/VNCH (Tổng Nha Cảnh Sát) cũ.
Sau nhiều ngày “điều nghiên” cho chắc ăn, mãi đến cuối năm 1989, tôi mới mang hồ sơ của mình đi nộp. Lúc đến nơi tôi thấy nhiều người cũng đến nộp đơn khá đông. Mọi người nộp đơn phải đóng một số tiền lệ phí khá lớn, khoảng 200.000 đồng tiền Hồ cho mỗi đầu người cộng thêm một vài phụ phí linh tinh khác. Gia đình tôi bốn người gồm vợ chồng và hai con đã tốn mất gần một triệu.
Khoảng sáu tháng sau, gia đình tôi nhận được giấy mời đi bổ túc hồ sơ ở văn phòng quản lý xuất nhập cảnh ở góc đường Nguyễn Du và Lê Văn Duyệt (nay là đường Cách Mạng Tháng 8) đối diện vườn Tao Đàn. Theo rỉ tai của những người đi trước, để việc bổ túc hồ sơ được dễ dàng thuận lợi thì nhớ “bồi dưỡng” cho tên cán bộ phụ trách một bao thuốc lá 555. Có người vì chủ quan hay vì không biết chuyện này nên đã phải ra về, đi tới đi lui bổ túc hồ sơ nhiều lần mà vẫn chưa xong việc. Nghe nói vậy, nên trước khi vào trình giấy tờ, tôi đã ghé sạp bán thuốc lá lẻ trên lề đường phía trước văn phòng. Bà bán thuốc lá đưa cho tôi một gói thuốc lá 555 có vẻ đã cũ, tôi nói bà đổi cho gói khác nhưng bà nói: “Cậu mua thuốc mang vào cho cán bộ bên trong phải không? Không sao đâu. Nó vào trong rồi chiều nó cũng ra lại đây thôi.” Tôi hiểu ý bà muốn nói gì nên trả tiền mua gói thuốc đó. Quả nhiên, khi vào gặp tên công an phụ trách, trong lúc y đang xem hồ sơ, tôi để gói thuốc lá lên bàn và nói: “Mời cán bộ hút thuốc.” Nói là mời nhưng gói thuốc lá của tôi vẫn còn nguyên chưa xé bao. Tên công an vẫn lầm lỳ, mặt lạnh như tiền, không nói gì và cũng không ngẩng đầu lên. Hắn lấy tay lẹ làng gạt gói thuốc lá vào trong ngăn kéo bàn đã mở sẵn mà tôi nhìn thấy đã có sẵn mấy gói thuốc lá 555 ở trong. Trong khi đó hắn kiểm soát những giấy tờ tôi mang theo xem đã đầy đủ chưa một lúc rồi nói giấy tờ của tôi đã đầy đủ, tôi có thể ra về.
Tiếp đó, sau những lần bổ túc hồ sơ ở nhiều nơi khác, rồi khám sức khỏe, chụp hình, lăn tay, phỏng vấn, v.v… cuối cùng tôi đã được chấp thuận chờ ngày lên đường. Nhưng trước khi để được lên đường cũng còn phải trải qua nhiều thủ tục cũng nhức đầu không kém. Nào là phải có giấy không thiếu nợ ngân hàng, giấy xác minh không vướng bận về nhà đất. VC đưa ra một quy định vô lý là cấm mua bán, sang tên chủ quyền nhà đất với những người xuất cảnh nguyên là những sĩ quan chế độ cũ từ cấp Thiếu tá trở lên cho các sĩ quan quân đội và từ cấp Trung úy trở lên cho các sĩ quan cảnh sát. Tôi là một sĩ quan cảnh sát cấp đại úy nên phải giao căn nhà của chúng tôi ở chúng cư Minh Mạng Q.10 - Saigon cho chúng; không những vậy, tôi còn phải làm đơn xin nhà nước quản lý giùm căn nhà này vì vắng chủ (một kiểu tịch thu nhà thật tinh vi). Thiệt là tức. Vô lý hơn nữa, chúng còn truy thu tiền thuế thổ trạch cho căn nhà này kể từ khi chúng được xây cất cho đến nay. Nhà tôi là nhà chúng cư, lại ở trên lầu thì làm gì có đất mà phải nộp thuế thổ trạch? Nhưng thôi, coi như “thí cô hồn” cho chúng mấy chục ngàn tiền thuế thổ tả này cho yên chuyện mà lên đường.
Để tránh bị trục trặc vào giờ chót, tôi đã nhờ một văn phòng dịch vụ lo trước các giấy tờ liên hệ trước khi lên đường. Trước ngày đi, tôi hẹn giao chìa khóa nhà cho phường rồi đến ở tạm nhà chị tôi chờ ngày ra phi trường cho chắc ăn. Tuy nhiên, trước khi giao nhà cho phường, tôi đã tháo gỡ hết những cửa sắt, bóng đèn, ổ điện trong nhà đem bán ve chai hay cho người nhà cho bõ ghét. Đến ngày hẹn, hai tên cán bộ phường đến nhà tôi để nhận chìa khóa. Chúng hạch hỏi nhà sao không có bóng đèn và ổ điện. Tôi nói: “Đây là nhà của chúng tôi nhờ nhà nước quản lý giùm trong thời gian chúng tôi đi ra nước ngoài. Nó như thế nào thì các anh cứ tiếp nhận như vậy. Hôm nay, tôi chỉ có nhiệm vụ giao chìa khóa nhà cho các anh, còn các giấy tờ liên hệ tôi đã được cấp đầy đủ rồi.” Hai tên cán bộ biết không thể làm khó dễ gì được tôi nên quay sang chúc chúng tôi lên đường may mắn.
Hai ngày cuối cùng tôi đến ở nhà chị tôi hầu như tôi không ngủ được. Đêm nào chị và em trai tôi cũng thức ngồi nói chuyện với vợ chồng tôi đến tận nửa đêm. Chúng tôi ôn lại những kỷ niệm và dặn dò nhắn nhủ nhau đủ điều.
Buổi chiều cuối cùng trước ngày lên đường, tôi mượn chiếc xe đạp của em tôi đạp vòng quanh qua mấy con đường trong thành phố để nhìn lại Sài Gòn một lần chót. Tôi đạp xe loanh quanh mà chẳng biết mình đi đâu. Đường phố về chiều xe cộ vẫn tấp nập. Tôi chậm rãi đạp xe dọc theo đường Công Lý, qua Dinh Độc Lập, rẽ về Nhà Thờ Đức Bà, rồi theo con đường Duy Tân nhìn lại ngôi trường đại học cây dài bóng mát mà một thời tôi đã lui tới… Những con đường xưa, phố cũ đã ghi dấu bao nhiêu kỷ niệm trong tôi rồi sẽ chỉ còn là dĩ vãng. Sài Gòn ơi, tôi sắp xa bạn rồi, biết đến bao giờ ta mới gặp lại nhau.
Sáng ngày hôm sau chúng tôi chính thức ra phi trường Tân Sơn Nhất để ra đi, cảnh chia tay chị em tôi thật là bịn rịn. Lúc chúng tôi phải bước vào phòng cách ly để đi ra sân bay, chị tôi rưng rưng nắm tay tôi chúc tôi lên đường bình an. Qua cửa sau của phòng cách ly, chúng tôi bước ra sân bay để đi ra máy bay. Tôi không dám quay đầu lại vì tôi sợ tôi sẽ khóc khi thấy chị tôi đang đứng khóc nhìn theo chúng tôi. Tôi biết từ nay tôi sẽ xa chị, người chị cả thương yêu của tôi và cả cái đất nước này, tôi sẽ xa rời nó mà chưa biết đến bao giờ mới trở lại.
Trong lúc đi đến chiếc máy bay đậu ở đằng xa, tôi nhìn thấy một ông trung niên đang bước lên cầu thang máy bay. Khi đến trước cửa máy bay, người đàn ông này đã quay đầu lại nhìn về phía phòng khách phi trường, rồi bất ngờ ông quỳ xuống chắp tay lạy ba lạy trước khi bước vào bên trong khoang máy bay. Tôi không hiểu, ông lạy giã từ đất mẹ, hay ông lạy cám ơn trời đất đã cho ông được thoát ra khỏi cái “thiên đường” cộng sản này.
Khi chiếc máy bay cất cánh, từ trên cao nhìn qua khung cửa sổ, tôi thấy Sài Gòn của tôi ở dưới đang lùi dần, nhỏ dần rồi mất hút. Bỗng dưng nước mắt tôi ứa ra, buồn bã, tôi nhủ thầm, Sài Gòn ơi, xin giã biệt!
NĐT