top of page
Banner edge

VĂN

VĂN 2.png
ÔNG ÍCH KHIÊM

LÃNG NHÂN (GIAI THOẠI LÀNG NHO)

Ông   Ích Khiêm là người làng Phong Lệ, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Vốn   dòng dõi người cao nguyên, trước họ Ong đến đầu đời Tự Đức thi đỗ cử   nhân, vua cho đổi thành họ Ông, về sau thường gọi là ông Tiễu, vì ông   làm chức Tiễu phủ sứ.


Khi làm tri huyện ở Huế,  Pháp tấn công chiếm được kinh thành, ông bị  cách chức tước, phải đi  tiền quân hiệu lực. Ông ngày thường hay nghiên  cứu binh thư, có mưu  lược lại thêm võ dõng, nên đánh giặc nhiều trận  thắng. Sau được khai  phục, thăng lần lần lên đến chức Tiễu phủ sứ. Sử  chép đã nhiều về ông,  nay xin dẫn lại vài chuyện nhỏ.


Ông  ra trận không cần  dùng nhiều quân, chỉ trọng mưu lược và dũng cảm. Lúc  đánh giặc Tàu Ngô  Côn, ông bày trận: sớm quay lưng về hướng đông, chiều  quay lưng về  hướng tây. Thời ấy đánh nhau bằng giáo mác, quân Tàu phần  nhiều thức  khuya hút thuốc phiện. Sáng dậy, mắt nhắm mắt mở nên hay bị  quáng nắng,  binh ông nhân đó thừa thế đánh tràn. Trận ấy Ngô Côn thua bỏ  lại cả ngàn xác chết.


Khi tỉnh thành Thái Nguyên  bị vây, Trung quân đô thống Đoàn Thọ đưa  quân lên cứu, bị tử trận. Vua  Tự Đức sai ông đi tiếp ứng. Ông ra gần đến  nơi, đóng một chỗ, cách xa  trại giặc rồi cho làm lễ tế cờ cầu thắng  trận.

Có mười đạo quân, ông ra  lệnh mỗi đạo phải dùng 10 đồng tiền ( cộng  100 đồng ), mặt trên bôi vôi  trắng, mặt dưới hơ đen để làm tiền bói âm  dương. Đêm ấy lập đàn tế,  các tướng cao cấp đều vào thị lễ. Khi sắp tế,  ông đến trước đàn khấn to  cho mọi người nghe thấy:


- Nếu thần minh phù hộ,  thì xin cho trăm đồng tiền sấp cả hay ngửa  cả. Chứ trong 100 đồng tiền  này, 99 đồng sấp 1 đồng ngửa, hay 99 đồng  ngửa mà 1 đồng sấp, thì bản  chức đành đóng quân lại để tìm kế rút lui.

Rồi ông tung 100 đồng tiền  lên mặt mâm thau, tướng sĩ trông thấy sấp  đen xì cả, đều reo hò mừng  rỡ. Có hay đâu, ông đã ngầm thay 100 đồng  tiền khác, hai mặt đều tô đen  cả.


Ông lễ tạ, rồi thu tiền đem cất và tuyên bố:


- Thế này đủ biết lòng trời còn tựa xã tắc, tướng sĩ phải hết sức đánh giặc, thế nào cũng thắng.


Quân sĩ tin có trời giúp, nên khi ra trận đều nức lòng công phá rất hăng hái. Quả nhiên tỉnh thành được khôi phục ngay.


Dẹp giặc xong ông được  thăng Tham tri. Bấy giờ là cuối đời Tự Đức, việc giao thiệp giữa ta và  Pháp đương khó khăn, vua lại cử ông ra bắc mưu đồ việc chống Pháp. Ra  bắc, vừa gặp lúc nhà Thanh cho Phùng tử Tài,  Từ duyên Húc, và quân cờ  đen Lưu vĩnh Phúc sang đóng rải rác ở các tỉnh  thượng du. Quân Tàu ỷ  thế áp bức dân ta rất tàn ác, việc cung ứng lương  thực cho họ rất phiền  phí, dân chúng ca oán. Ông cho việc mượn binh Tàu  sang đánh Pháp là  thất sách, nên có làm bài thơ.


Áo chúa cơm vua đã bấy lâu.

Đến khi có giặc phải thuê Tàu.

Từng phen võng giá mau chân nhảy.

Đến bước chông gai thấy mặt đâu?

Tiền bạc quyên hoài dân xác mướp.

Trâu dê ngày hiến đứa răng bầu.

Ai ôi hãy chống trời Nam lại.

Kẻo nữa dân ta phải cạo đầu ….


Phải cạo đầu….theo tục và theo lệnh nhà Mãn Thanh.


Ông ở bắc cho đến khi hoà  ước Việt Pháp đã ký xong lại về kinh cung  chức. Bấy giờ vua Tự Đức đã  mất, triều chính rối loạn, vua kế vị còn  nhỏ, Tường Thuyết chuyên  quyền, văn thần võ tướng chỉ là một lũ cầu an  không ai lo đến việc  nước. Ông bực dọc bèn đặt ra một tiệc mời khắp mặt  đại thần tới dự. Các  món ăn đều làm bằng thịt chó.


Lúc vào tiệc, nhiều người không ăn được thịt chó, ngập ngừng hỏi món ăn khác, thì ông trả lời:


- Bẩm, bữa cơm hôm nay toàn chó cả thôi.


Cơm xong, các quan gọi  nước, mãi không thấy người nhà đưa lên – vì  ông đã dặn trước đừng đưa –  ai nấy đều khô cổ vì rượu. Một lúc sau,  người nhà lên ông mắng ầm:


- Lũ chúng bay chỉ biết đứa lớn đứa nhỏ ngồi ăn hại, còn thì không biết việc nước là gì cả.


Các quan đều tím mặt.


Vì ông tính khí khẳng khái  không luồn lụy quan trên, vả lại phật ý  với Tôn thất Thuyết và Nguyễn  văn Tường, nên bị bắt bỏ ngục. Khi ở trong  ngục ông có ngâm hai câu:


Nhất giang lưỡng quốc nan phân thuyết.

Tứ nguyệt tam vương thậm bất tường.


- Sông Hương chia hai dòng  nước, thì khó nói chuyện: một bên trong  một bên đục.  Nhưng ngụ ý bên  kia toà khâm người Pháp đóng, bên này  thành thuộc về Nam triều.


- Trong 4 tháng mà thay đổi 3 vua (Dục Đức, Hiệp Hoà, Phúc Kiến) là điều không hay.


Nhưng dụng ý hai chữ câu cuối, một bên chữ Thuyết, một bên chữ Tường, ám chỉ Tôn thất Thuyết và Nguyễn văn Tường.


Sau ông bị đưa đi an trí ở Bình Thuận và mất ở đấy.


VĂN 1.png

VĂN THƠ NHẠC

bottom of page