top of page
Banner edge

VĂN

VĂN 2.png
DẢI LỤA BÍCH LIÊN

NGÔ VIẾT TRỌNG

(TUYỂN TẬP TRUYỆN SỬ 2019)


Sau khi đánh bại nhà Hồ vào năm Đinh Hợi (1407), nhà Minh cho bắt hầu hết các tôn thất và quan chức trọng yếu của Hồ triều áp giải về Tàu. Phần  lớn những thê thiếp, đày tớ của những gia đình nạn nhân này đã bị nhà  Minh đem phân phối cho những quan chức, quân lính có công của họ tùy  nhu cầu sử dụng. Vua Minh lại lựa những viên quan của Hồ triều còn  phong độ như Vương Nhữ Tương, Đồng Ngạn Hú, Nguyễn Quân, Lê Sứ Khải bổ  làm Kinh  Bắc thị lang, tham chính Sơn Tây, Thiểm Tây, Sơn Đông. Nhưng khi họ đi  nhậm chức mới nửa đường, vua Minh cho người đuổi theo giết  hết. Những  người còn lại vua Minh cho an trí họ mỗi người một nơi.  Chính Hồ Quí Ly và Hồ Hán Thương cũng bị đày ra làm lính thú ở Quảng  Tây.


Chỉ có Hồ Nguyên Trừng,  con trưởng của Hồ Quí Ly, nguyên là Tả tướng quốc Hồ triều, nhờ có tài sáng chế súng thần sang, một loại vũ khí tối  tân đương thời, được cho  đoàn tụ với vợ con và được trọng dụng. Nhưng vua Minh không cho Nguyên  Trừng giữ họ cũ nữa mà đổi lại họ Lê, trên giấy tờ viết là Lê Trừng. Ban đầu Lê Trừng được bổ làm Chủ Sự ở Binh Trượng cục (1) thuộc Bộ Công. Tuy được vua Minh trọng dụng, Lê Trừng vẫn  rất biết thủ phận. Ông luôn tỏ ra mẫn cán, tận tâm với công việc, ít giao du, không họp bè  nhóm bạn bàn chuyện thị phi. Ngày ngày ông đến Bộ  Công làm việc, tối  lại về nhà nghỉ như một cái máy, ít khi thay đổi.

Vợ của Lê Trừng họ Nguyễn, con gái của An phủ sứ Bắc Giang là Nguyễn Hy Chu. Trước kia Hy Chu  đánh nhau với quân Minh thua trận, bị Trương Phụ bắt, Hy Chu mắng chửi  Phụ thậm tệ nên Phụ tức giận giết hết cả nhà.  Vì chuyện đó nên Nguyễn  phu nhân rất căm hận người Minh. Tánh bà cương  cường, không ham phú  quí, không ưa đua đòi, ít giao thiệp ồn ào, nên rất  được chồng nể  trọng.


Từ khi Lê Trừng được vua  Minh bổ làm quan, Nguyễn phu nhân chỉ giao thiệp độc một người bạn, đó  là Cao phu nhân, vợ một vị quan Thị giảng học sĩ làm việc trong Hàn lâm  viện. Hai bà đã gặp nhau trong một lần đi lễ tại chùa Phúc Lạc để rồi  thân thiết nhau như một mối duyên tiền định.


Cao phu nhân lớn tuổi hơn và chức tước của chồng bà cũng cao hơn Lê Trừng nên bà coi Nguyễn phu  nhân như một người em. Họ trở thành tâm đầu ý  hợp, quí mến nhau, thích trao đổi với nhau những chuyện vui buồn. Họ  thường gặp nhau ở chùa Phúc Lạc vào những ngày rằm hay mồng một...

*

Cuối năm Canh Dần (1411), một hôm đi chầu về, Lê Trừng trao cho vợ một gói bọc giấy hồng điều và nói:


-Hôm nay ngày đại triều,  không hiểu thánh thượng cao hứng thế nào,  ngài khen ngợi ta, thăng cho  hai trật, lại còn thưởng phu nhân món quà  quí giá này nữa!


Phu nhân hờ hững nói:


-Tướng công làm việc đắc lực thì thánh thượng phải ban thưởng chứ có gì lạ!


Lê Trừng không hài lòng về lời nói của vợ:


-Ta mới được ban thưởng chưa đầy nửa năm, giờ được ban thưởng nữa không lạ sao?


Phu  nhân mở gói quà ra  xem. Đó là hai cây lụa bích liên, một thứ lụa có sắc  biếc óng ánh như  ngọc bích, trông rất mát mắt, thuộc loại lụa quí hiếm  mà giới khuê các  đương thời đều ưa chuộng. Phu nhân hơi bàng hoàng vì  cái ân huệ đặc  biệt này nằm ngoài sự tưởng tượng của bà. Ai ngờ một vị  hoàng đế độc  tài, khắc nghiệt như vua Minh cũng biết đoái nghĩ tới niềm  vui của thê  thiếp một viên hàng thần nhỏ nhoi. Bà nói với giọng xúc  động:


-Thánh thượng quả rộng lượng thế này ư? Nhờ tài cán của tướng công mà thiếp cũng được vinh dự lây!


Lê Trừng thấy vợ có sắc vui thì mừng lắm, ông nói:


-Phu nhân thấy đó, lượng  thánh bao giờ cũng rộng như biển cả. Những  việc không hay xảy ra trước  đây đều do lỗi của kẻ dưới gây nên. Từ nay  phu nhân hãy quên chuyện cũ  đi cho đầu óc được thoải mái!


-Cám ơn tướng công. Đâu phải thiếp muốn nhớ mãi những chuyện đau lòng ấy làm gì, nhưng làm sao quên được đây?


Khi Lê Trừng đã vào triều,  phu nhân liền mở gói lụa xem lại. Càng  xem bà càng bị thu hút bởi cái  vẻ ảo diệu lạ lùng tưởng như nó biến đổi  màu sắc qua từng giây. Đúng là  lụa ngọc! Trong lúc đang say sưa ngắm  lụa, đột nhiên trong đầu phu nhân trỗi lên một mối thắc mắc: chồng ta có công gì mà nhà vua lại ban  thưởng trọng hậu thế này nhỉ? Phải, chồng ta vừa mới được ban thưởng  chưa đầy nửa năm! Không lẽ hoàng thượng đã quên? Ban thưởng bất thường  tất phải có lý do bất thường! Phu nhân bỗng giật mình... Thế rồi phu  nhân thẫn thờ chờ đợi chồng về để hỏi cho ra lẽ.


Nhưng hôm đó Lê Trừng lại  về rất muộn. Ông bước vào nhà với vẻ mặt căng thẳng, lạnh lùng khiến  những thắc mắc mà phu nhân đã chuẩn bị hỏi  ông trong giây lát tan biến hết. Bà kêu người nhà dọn cơm ra nhưng ông  cản lại:


-Khỏi dọn cơm. Khi nào cần ta gọi.


Nói xong, ông vào phòng riêng, đóng cửa lại. Một hồi lâu sau vẫn không thấy động tịnh gì, phu nhân đâm ra lo ngại, bà bèn đến phòng của chồng gõ cửa. Lê Trừng mở  cửa cho vợ vào rồi trở lại ghế ngồi với vẻ mặt trầm tư khó hiểu. Phu nhân hỏi:


-Hôm nay tướng công vào triều chắc gặp chuyện gì rắc rối?


-Đúng, thánh thượng bảo ta phải làm một việc rất quan trọng. Ta suy nghĩ mãi vẫn chưa biết tính cách nào cho êm đẹp!


-Tướng công có thể cho thiếp biết việc quan trọng ra sao may ra thiếp có thể giúp chút ý kiến nào chăng?


-Khó lắm! Việc quốc sự, việc đàn ông, phu nhân nghe chỉ thêm nhức đầu chứ chẳng giúp ta được gì đâu!


-Cứ nói cho thiếp nghe đi!  Nếu thiếp giúp tướng công được ý kiến nào thì giúp, nếu không giúp  được thiếp cũng giữ kín trong lòng chứ tiết lộ với ai mà ngại?


Lê Trừng thở dài rồi kể:


-Hôm nay, lúc ta đang làm  việc thì được lệnh vua đòi khẩn cấp. Khi  ta đến, thánh thượng đòi ta  vào rồi đuổi tả hữu ra ngoài hết. Việc một  vị hoàng đế hiển hách gọi  một viên quan nhỏ vào gặp riêng là một việc  bất thường. Chắc hẳn có  chuyện quan trọng! Thánh thượng nghiêm nghị hỏi ta: “Khanh trước ở An  Nam có biết Hồ Ngạn Thần là người thế nào không?”.  Ta hơi ngạc nhiên.  Thật tình ta có quen biết Ngạn Thần nhưng từ khi bị  bắt về Tàu, ta  chẳng còn biết ông ta sống chết ra sao. Hồ Ngạn Thần là  người có học  nhưng bản chất tầm thường, không khôn lanh, ít hiểu đời!  Phải chăng  Ngạn Thần đã sang Tàu và nhà vua muốn dùng ông ta vào việc  gì? Biết  ngài tâm cơ sâu sắc, ta ngại có thể bị liên đới trách nhiệm về  sau nên  thành thật thưa: “Thần biết, Hồ Ngạn Thần trước kia là đồng môn  của  thần, sau lại từng làm việc dưới trướng của thần. Ông ta là người  giỏi  từ chương, đỗ đạt cao, nhưng kiến thức nông cạn, suy nghĩ hời hợt.  Bệ  hạ nên cẩn thận nếu giao việc cho ông ta”. Thánh thượng cười rộ với  vẻ  đắc thắng: “Vậy thì việc này khanh có thể làm suôn sẻ, dễ dàng”. Ta   ngạc nhiên hỏi lại: “Tâu, bệ hạ sai hạ thần làm việc gì ạ?”.


Thánh thượng nói: “Vừa rồi bọn giặc cỏ ở Giao Chỉ dối  xưng là con cháu họ Trần, tụ họp chòm ong lũ kiến sách nhiễu dân  chúng, quấy phá việc trị an nhiều nơi. Nay triều đình đã đánh dẹp gần  hết, chỉ còn một số nhỏ rút về hoạt động ở các lộ Tân Bình, Thuận Hóa.  Các vùng này rừng núi hiểm trở, bọn giặc đã lợi dụng địa thế, ẩn hiện  khó lường, gây nhiều khó khăn cho triều đình. Nay tên thủ lãnh của giặc  là Quí Khoáng lại sai viên Hành khiển Hồ Ngạn Thần sang đây cầu phong  để xin cai trị các vùng đất  ấy. Khanh đã quen biết Ngạn Thần, vậy  phiền khanh gặp y, ân cần thăm  hỏi thế nào để y thổ lộ tình hình thực  tế của giặc để ta có thể tùy cơ  ứng xử. Đó là một việc rất cần thiết mà  trẫm tin khanh sẽ làm được! Việc  thành trẫm sẽ trọng thưởng. Khanh không từ nan chứ?”.


Phu nhân nghe nói lộ vẻ hoảng hốt:


-Tướng công đã nhận lời chưa? Thiếp nghĩ tướng công nên tìm cách từ chối việc đó!


-Vua đã muốn thế ta làm sao từ chối? Hiện ta đang nhức đầu vì việc đó.

Phu nhân tỏ ra thông cảm hoàn cảnh của chồng, bà nói:


-Thiếp hiểu lòng tướng  công lắm. Tuy chưa biết ông Quí Khoáng thủ lãnh lực lượng chống Minh ấy  là ai nhưng thiếp tin chắc đó là một người muốn dành độc lập cho Đại  Việt. Việc làm đó đáng hoan nghênh lắm. Tướng  công thấy khó nghĩ là  phải. Không lẽ một vị cựu Tả tướng quốc của Đại  Việt lại cam lòng điều  tra tình hình hư thực của lực lượng khởi nghĩa  báo cho người Minh biết  để người Minh tiêu diệt họ sao? Trong tình thế  bị ép buộc, mình chỉ làm  qua loa chiếu lệ có được không?


Lê Trừng lại thở dài:


-Kiến thức phu nhân cũng  khá đấy! Quí Khoáng chính là cháu nội của vua Nghệ Tôn, con của Trang  Định vương Trần Ngạc. Đúng là ông ấy muốn khôi phục cơ nghiệp nhà Trần.  Nghe lúc đầu ông ấy đã chiếm giữ gần nửa  nước An Nam và đã xưng đế  niên hiệu là Trùng Quang. Nhưng hiện tại, thánh thượng cho biết, ông ấy  chỉ còn giữ được các lộ Tân Bình, Thuận Hóa. Thật tình ta cũng muốn  làm qua loa cho xong chuyện, nhưng sợ không  qua mắt thánh thượng nổi,  lại mắc phải tội khi quân!


Phu nhân lộ vẻ buồn, hỏi lại:


-Mình nỡ nào giúp người  Minh tiêu diệt lực lượng kháng chiến của  chính nước cũ của mình  ư? Tướng công nên giả ngu ngơ một chút không được sao? Nếu thánh thượng  phát giác được điều này, bất quá tướng công  bị giáng xuống vài trật là  cùng chứ gì! Mà dù thánh thượng có cách chức  mình cũng cam chịu thôi.  Chứ giúp người Minh để tiêu diệt chính dân tộc  mình, chúng ta sẽ để lại danh xấu muôn đời không chịu nổi đâu!


Lê Trừng uể oải nói:


-Ta nào sợ chi việc mất chức tước, ta chỉ sợ...


-Đã không sợ mất chức tước thì tướng công còn sợ cái gì chứ?


-Phu nhân không biết điều  ta sợ đâu... Ở Quảng Tây tới nay các vụ  nổi loạn vẫn chưa dẹp được.  Người của triều đình dù quân hay dân hễ gặp quân phiến loạn là hết mong  sống. Ngược lại, triều đình cũng đối xử với quân phiến loạn chẳng khác  mấy. Hiện nay triều đình đang dùng chiến thuật “3 diệt” đối với phe  phiến loạn: giết sạch không chừa người nào, đốt sạch không chừa chỗ trú  ẩn nào, bỏ thuốc độc hết sạch không chừa nguồn nước nào. Như vậy bảo  ta không sợ sao được? Liệu những người thân của ta đang bị an trí ở  Quảng Tây có qua khỏi vụ dẹp loạn này không? Còn ở An Nam, không khéo  người Minh cũng áp dụng chiến thuật “3 diệt” nữa  lại càng đau khổ.  Nhưng thôi, phu nhân cứ đi ngủ đi! Đầu óc ta đang căng  thẳng lắm, ta  cần nghỉ ngơi một lát. Ngày mai vào triều ta sẽ tùy cơ ứng biến!


*

Hôm sau, Lê Trừng và Hồ  Ngạn Thần gặp nhau ở sân chầu. Tha hương ngộ cố tri, hai người bao xiết  vui mừng. Thấy những người cùng đi với mình chưa  biết Lê Trừng là ai, Hồ Ngạn Thần giới thiệu:


-Đây là ngài Lê Trừng, tên cũ là Hồ Nguyên Trừng, Tả tướng quốc Hồ triều nước Đại Ngu tức An  Nam ngày trước. Ngài hiện giữ chức Chủ Sự ở Binh Trượng cục thuộc Bộ  Công. Còn đây là quan Thẩm hình Bùi Nột Ngôn,  đang tùng sự trong sứ  đoàn An Nam với chức vụ phó sứ...


Sau một hồi hỏi thăm nhau chuyện cũ, Lê Trừng nói với Ngạn Thần:


-Bây giờ vua sắp ra triều,  không thể nói chuyện lâu nữa, ngài cứ lo  công việc của ngài cho xong.  Ngày mai nghỉ chầu chắc ngài rảnh chứ? Tôi muốn mời ngài đến tệ xá uống  với tôi một bữa rượu cho thỏa tình hoài vọng. Lâu lắm rồi chúng ta mới  có dịp gặp lại nhau! Chúng ta sẽ tha hồ hàn huyên chuyện cũ. Mong ngài  không từ chối!


Hồ Ngạn Thần vui vẻ đáp:


-Lê đại nhân đã có ý tốt tôi xin tuân mệnh!


Bùi Nột Ngôn vốn là người  am hiểu việc đời, có đầu óc nhận xét nhạybén, ông nghi ngờ cái thiện  chí của Lê Trừng ngay. Thông thường, khi hai  nước đang ở trong tình  trạng chiến tranh, mọi sự tiếp xúc cá nhân giữa  người bên này với bên  kia nếu không do chỉ thị của thượng cấp đều có thể  bị ghép vào tội  thông đồng với ngoại quốc. Lê Trừng đã làm việc cho  Minh triều làm sao  dám tự tiện tiếp xúc với sứ giả An Nam trong khi hai  nước đang đánh nhau? Nhất là trong trường hợp An Nam lại là nước cũ của  ông ta! Nhất định việc này là do chủ trương của Minh triều! Bùi Nột Ngôn  cũng biết  rõ Ngạn Thần là người ruột để ngoài da, ưa khoe sự hiểu biết,  có gì  tuôn ra nấy, rất dễ bị đối phương khai thác lợi dụng. Nếu để Ngạn Thần  đến dự tiệc với Lê Trừng thì thật đáng ngại. Nghĩ thế nên Bùi Nột  Ngôn nhắc khéo:


-Lê  đại nhân đã nặng tình lưu luyến, quan chánh sứ muốn cùng vui với ngài  tôi không dám có ý kiến. Nhưng quan chánh sứ cũng nên cẩn thận một tí để  tránh sự hiềm nghi có thể gây rắc rối cho Lê đại nhân và cho chính cả  chúng ta nữa!


Hồ Ngạn Thần vô tư chẳng  để ý câu nói ấy, nhưng Lê Trừng biết ngay Bùi Nột Ngôn đã cảnh giác về  bữa tiệc rượu do ông mời, ông giải thích:


-Xin Bùi tiên sinh hiểucho, quan Hành khiển với tôi là chỗ thân  tình cũ, không lẽ gặp nhau lại  làm ngơ? Hôm qua vào chầu gặp hồi thánh thượng đang vui vẻ, ngài có  hỏi đến quan Hành khiển. Tôi cũng thành thật  trình bày với ngài về mối  liên hệ cũ giữa chúng tôi. Ngài nói: “Như vậy  khanh cũng nên lấy tình  cố nhân mà cư xử với y cho trọn đạo bằng hữu và cũng để giữ hòa khí  giữa hai nước”. Thế rồi ngài gọi nội giám đem cho  tôi một hũ rượu mà nói: “Ban cho khanh để đãi cố nhân đấy!”. Tôi nghĩ đó  là ý tốt của đức kim thượng nên mới dám mời quan Hành khiển uống rượu đấy chứ!


Lê Trừng nói chưa hết lời thì tiếng loa báo “Hoàng thượng giáng lâm” đã vang lên. Ai nấy đều vội vã trở về vị trí của mình.


Bùi Nột Ngôn cảm thấy bồn  chồn trong dạ, ông lẩm bẩm: “Đây chắc là một tuồng dàn dựng để đưa Hồ Ngạn Thần vào bẫy rồi! Biết làm sao bây giờ?”


Khi trở về quán dịch, Bùi Nột Ngôn nói riêng với Hồ Ngạn Thần:


-Lê Trừng tuy là cựu Tả  tướng quốc nước ta nhưng nay y đã chịu làm việc cho người Minh, lòng dạ của y lúc này mình không thể đoán được. Khi  uống rượu với Lê Trừng  ông  phải hết sức cẩn thận mới xong. Nếu Lê  Trừng có hỏi đến vấn đề bố  trí quốc phòng, nhân sự mạnh yếu, tinh thần  trên dưới ra sao, ông phải  tránh đi đừng cho y biết.


Hồ Ngạn Thần nghe dặn có vẻ không bằng lòng:


-Sao ông coi thường tôi  đến thế? Nhưng dù sao lo xa thì cũng tốt,  xin cám ơn ông! Gặp Lê Trừng  tôi sẽ chỉ nói chuyện tình cũ nghĩa xưa mà thôi, ông cứ yên chí!


-Tôi chỉ ngại khi có chút  rượu trong người mình tự kiểm soát không  nổi vô tình tiết lộ điều gì có  thể nguy hại cho quốc gia nên dặn chừng  vậy thôi. Xin ông chớ buồn!

*

Hôm  ấy Lê Trừng đối ẩm với Hồ Ngạn Thần tại tư dinh. Mấy thị nữ của Lê  Trừng lo việc phục dịch  rất chu đáo. Lê Trừng vừa ân cần mời mọc Ngạn  Thần vừa nhắc lại những  kỷ niệm xa xưa giữa hai người. Uống một hồi cả  hai người đều ngà ngà.  Được cố nhân đối đãi mặn nồng như vậy Ngạn Thần  xúc động lắm. Với giọng  lè nhè, ông cảm thán:


-Thú thật với cố nhân, hai ba năm nay tôi mới uống được một bữa thỏa thuê như thế này!


Lê Trừng tỏ vẻ ngạc nhiên, cũng với giọng lè nhè, hỏi lại:


-Cố nhân nói như An Nam thiếu rượu thịt không bằng?


-Tôi nói thật đấy chứ! Đức vua cũng còn nhịn thèm nữa huống chi hạng tôi!


-Cố nhân nói gì mà tệ vậy? Lời cố nhân khó mà tin được!


-Ông không tin ư? Hiện nay  khu vực đồng bằng trong nước người Minh chiếm hết cả rồi! Quân An Nam  chỉ còn giữ được mấy vùng rừng núi, thiếu  lương thực, quân sĩ bữa no  bữa đói, bệnh tật liên miên, vua nỡ lòng nào  mà rượu với thịt?


-Tình hình bi đát đến vậy à? Thế sức khỏe đức vua ra sao?


-Tội nghiệp, tất nhiên là đức vua ăn không ngon ngủ không yên! Trông ngài gầy gò lắm!


-Làm vua thời loạn cũng  cay đắng lắm nhỉ! Việc này tôi hiểu lắm vì  gia đình tôi cũng đã trải  qua! Thế các quan văn tướng võ chung quanh ngài thế nào?


-Về các văn quan, trong  hoàn cảnh loạn lạc này đâu có thi thố tài  năng được! Còn các tướng võ  như Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị, Nguyễn Súy lại không ăn ý nhau, thiếu  đoàn kết, hành động không thống nhất! Quân sĩ  thì đói rách quá cứ đào  ngũ hao mòn dần! Vua Trùng Quang cũng điên đầu  vì vấn đề này đấy!


-Quan quân An Nam trong  tình trạng đó mà các tướng giỏi của Minh  triều như Trương Phụ, Mộc  Thạnh không đánh đổ nổi kể ra vua Trùng Quang  cũng giỏi lắm đấy chứ!


-Chẳng qua cũng nhờ may  mắn thôi! Người Minh họ sợ bóng sợ gió trước  các vùng Tân Bình, Thuận  Hóa địa thế quá ư hiểm trở, xa lạ, họ đâu biết  thực lực quân An Nam  mạnh yếu thế nào. Nếu họ bạo gan cứ tấn công ào  vào quân An Nam làm sao  giữ nổi?


-Hóa ra tình hình hiện tại của nhà Trần khốn đốn đến vậy!


-Đúng thế, chuyến này nếu  Ngạn Thần tôi cầu phong mà thành công,  quân Minh nghỉ tấn công một vài  năm nữa thì may ra lực lượng của nhà  Trần mới hồi phục được!


Cuộc nói chuyện giữa hai người cứ thế tiếp tục mãi cho đến khi Hồ Ngạn Thần say gục xuống bàn tiệc...


Một thị nữ trong toán phục  vụ bữa tiệc đã trình lại khá đầy đủ nội  dung cuộc nói chuyện giữa Lê  Trừng và quan sứ Hồ Ngạn Thần với phu nhân. Phu nhân nghe xong lặng  người đi một hồi, sau đó bà than dài:


-Đáng thương thay cho dân  Đại Việt! Nhà Trần quả đã hết thời nên mới giao phó việc đi sứ cầu  phong cho một anh hủ nho lòng dạ tối tăm, coi miếng ăn hớp rượu cao như  núi Thái Sơn mà quên lo nghĩ đến sự an nguy  của tổ quốc! Biết làm thế  nào bây giờ?


Thế rồi bà vào phòng nghỉ của Lê Trừng để săn sóc cho ông. Khi Lê Trừng thức dậy, thấy vợ đang ngồi bên cạnh, ông hỏi:


-Bà cho người lo chăm sóc ông Ngạn Thần cẩn thận chứ! Ông ấy đã tỉnh lại chưa?


Phu nhân lắc đầu có vẻ không vui:


-Thị nữ vừa cho biết ông ta vẫn còn ngủ li bì! Thật tội nghiệp cho ông vua Trùng Quang đã quá  tin tưởng vào một bề tôi như thế! Ông ta ham  uống rượu hơn là nghĩ tới  sứ mạng được vua Trùng Quang giao phó!


Lê Trừng nghe vợ trách Ngạn Thần cũng đâm ra ngượng ngùng. Ông nghĩ phu nhân đã thấu hiểu việc làm của mình, bèn chống chế:


-Mỗi người mang một tâm  trạng khác nhau, ai hiểu ai được! Ông ấy làm nhiệm vụ sứ giả cầu phong  cho vua An Nam đã được thánh thượng hứa sẽ  phong, đó là một sự thành  công lớn, lại gặp cố nhân nữa, ông ấy uống vài  chén cho vui đâu có sao?


-Vui vì gặp lại bạn cố tri  sao tướng công chỉ uống cầm chừng trong  khi ông Ngạn Thần lại uống say  đến thế? Nếu tướng công cũng say như ông Ngạn Thần thì thiếp đâu dám  trách ông ấy? Thiếp rất mong tướng công suy  nghĩ thật kỹ trước việc  này. Nếu có việc gì xảy ra cho ông Ngạn Thần thì  việc đó cũng có thể  xảy ra cho nhà ta đấy!


Lê Trừng nghe giọng có vẻ đe dọa của vợ cũng bực mình, ông nói:


-Phu nhân sao cứ giữ cái  thành kiến cổ lỗ của mình vậy? Thật tình  thánh thượng cũng chỉ muốn các  mối loạn được sớm chấm dứt để dân An Nam  bớt khổ thôi! Còn việc của  ta, phải hiểu đó là một sứ mạng! Thánh thượng  là người nghiêm khắc,  quyết liệt, ta không muốn làm trái ý người! Hơn  nữa, ta còn phải nghĩ  đến đạo hiếu. Cha già ta, chú ta, em ta đang bị  đày làm lính thú ở  Quảng Tây, con cháu ta đang bị phân tán làm lao nô  mỗi người một ngả.  Mỗi lần nhớ tới họ ta không khỏi rơi nước mắt! Ta  cũng muốn đời họ đỡ  khổ hơn một chút chứ!


-Tướng công nghĩ tới cha  già và anh em con cháu của mình tuy hợp đạo  nhưng tướng công cũng nên  nghĩ tới hàng vạn dân Đại Việt đang đau khổ  dưới gót giày của quân xâm  lăng chứ! Chính gia đình ta phải chịu trách  nhiệm về sự thất bại của  Đại Việt trước người Minh chứ ai? Ai gây ra  thảm họa cho dân Đại Việt  ngày nay? Người Minh thật lòng muốn cho dân  Đại Việt bớt khổ ư? Thế sao  họ đặt thêm không biết bao nhiêu thứ thuế để  bóc lột đến nỗi nông dân,  thợ thuyền Đại Việt giờ đây chỉ còn biết sống  cầm hơi? Sao họ bắt dân  ta lên rừng kiếm sừng tê, ngà voi, họ bắt dân  ta xuống biển mò ngọc  trai đem về Tàu? Bao nhiêu dân Đại Việt đã phải  chết vì sốt rét, vì đói  lạnh, vì thú dữ, vì sóng bão trong khi bị bắt  làm những việc đó tướng  công biết không? Họ vơ vét hết nhân tài của Đại  Việt, từ những nhà sư  đạo cao đức trọng, những nhà văn học đến các loại  thợ khéo, từ nhà  thiên văn địa lý đến nhà bói toán, thậm chí cả những  thiếu niên tuấn mỹ  họ cũng bắt đem “thiến” đi đưa hết về Tàu để dùng,  thế là lo cho dân  ta bớt khổ ư? Họ lục tìm bao nhiêu sách vở quí giá do  người Việt trước  tác đem đốt hoặc chuyển về Tàu hết thế mà họ dám rêu  rao là bảo vệ,  khai hóa cho dân ta? Bây giờ tướng công lại tin họ, đành  lòng tiếp tay  cho họ làm những việc ác hại đối với dân Đại Việt như thế  ư?


Lê Trừng lặng người đi một hồi. Lát sau ông gượng nói:


-Phu nhân không nên ôm mãi  cái thành kiến về người Minh như thế. Dù  sao hiện giờ ta cũng đang ở  trong vòng kiềm tỏa của họ, sự an nguy của  chúng ta nằm cả trong tay  họ, ta còn biết làm sao hơn? Vì sự sống còn  của dòng tộc ta, vì tương  lai của con cháu, ta cứ tạm nhẫn nhục chiều ý  họ đã rồi tính sau! Phu  nhân đừng làm ta rối ruột thêm nữa!


Phu nhân có vẻ chán nản, bà nói với giọng đe dọa:


-Nếu tướng công muốn sống  như thế mặc ý. Còn thiếp, cha mẹ anh em  thiếp đều bị người Minh giết  hại, thiếp biết nỗi đau khổ người Minh đã  gieo rắc cho dân ta như thế  nào, thiếp sẽ tìm cách tự xử trí!


Lê Trừng lại im lặng một lát rồi dịu giọng:


-Được rồi! Ta hứa sẽ tìm cách làm sao cho êm đẹp mọi bề!


Bấy giờ phu nhân mới nở một nụ cười nhạt:


-Cám ơn tướng công! Thiếp mong tướng công giữ lời!

*

Hai hôm sau Hồ Ngạn Thần  và Bùi Nột Ngôn lại vào chầu vua Minh. Vua Minh ân  cần vỗ về ủy lạo sứ  thần, ban thưởng vàng bạc rất nhiều. Ngài cũng hạ  chiếu phong cho vua  Trùng Quang làm Giao Chỉ Bố chính sứ, cho Ngạn Thần  làm Tri phủ Nghệ  An. Xong việc, sứ đoàn An Nam vui vẻ bái tạ vua Minh  xin trở về nước  phục mệnh.


Tiễn đưa Ngạn Thần xong, Lê Trừng trở về dinh với bao nỗi hân hoan, ông nói với vợ:


-Phu nhân thấy đó, mọi  chuyện rốt cục đều tốt đẹp cả. Lần đi sứ này của Hồ Ngạn Thần đã đem  lại những thành quả hết sức to lớn cho An Nam. Vua Trùng Quang đã được  thánh thượng thừa nhận. Dân An Nam từ nay sẽ bớt  khổ. Có gì để phu nhân  phải bứt rứt đâu?


Vẻ mặt phu nhân trở nên tươi tắn, bà nói:


-Thật vậy sao? Thế thì may  cho dân Đại Việt ta lắm! Thiếp xin lỗi trước đây vì quá nóng lòng  trước cảnh khổ mà dân Đại Việt phải chịu nên đã có những lời làm tướng  công mất vui. Xin tướng công bỏ qua những lỗi lầm ấy.


-Không đâu! Phu nhân là  người có lòng với cố quốc, không có gì đáng  phiền trách. Tuy nhiên,  nhập gia tùy tục, mình cũng nên nhẫn nhịn một  chút. Ta khuyên phu nhân  từ nay nên gọi tên nước cũ là An Nam như người  Minh chứ đừng dùng cái  tên Đại Việt nữa nghe dễ mất lòng lắm. Nhớ nhé!


Giọng phu nhân trở lại trầm buồn:


-Đành vậy thôi! Cũng mừng  là lòng trời chưa nỡ bỏ dân Nam ta. Thật  tình tới giờ thiếp vẫn còn  thấy sợ hãi cho cái đêm tướng công uống rượu  với ông Hồ Ngạn Thần. May  gặp tướng công chứ gặp kẻ khác thì còn gì là  nước Nam?


Lê Trừng nở một nụ cười:


-Mọi chuyện bây giờ đã quá tốt đẹp, phu nhân cần gì phải băn khoăn nữa?


Từ đó, không khí trong gia  đình Lê Trừng ấm cúng trở lại. Phu nhân  cũng ít nhắc lại những chuyện  đau buồn cũ. Lâu lâu bà lại giở xấp lụa  vua Minh ban ngắm nghía lại với  vẻ thích thú. Những ngày rằm, mồng một  bà vẫn không quên đến chùa Phúc  Lạc dâng hương cầu nguyện. Thỉnh thoảng  gặp Cao phu nhân, hai bà lại  vui vẻ đàm đạo với nhau.


Một lần thấy phu nhân đang giở xấp lụa ra ngắm, Lê Trừng hỏi đùa:


-Sao phu nhân không cho may thành xiêm y để mặc cho mọi người ngắm luôn mà phải lâu lâu giở ra ngắm lại cho mất công?


Phu nhân đáp:


-Món quà này thánh thượng  ban cho chúng ta nhằm lúc sứ giả An Nam  sang cầu phong. Thiếp nghĩ  thánh thượng đã chấp thuận việc cầu phong ấy  tức là thánh thượng đã  thật lòng thương xót dân An Nam. Đó là một điều đáng mừng. Thiếp hay  giở xấp lụa này ra ngắm, thật ra việc thưởng thức màu sắc kỳ diệu của  nó chỉ là phần phụ, phần chính là để tự nhắc nhở mình khỏi quên cái ân  đức của thánh thượng đã ban cho dân Nam ta vậy.

*

Đầu  xuân năm Giáp Ngọ  (1414), nhà Minh tổ chức Hội Thái Hòa tại Kim Lăng để  ăn mừng công cuộc  bình định An Nam đã thành công. Những tướng lãnh,  quan chức của triều  đình từng đi đánh dẹp ở phương Nam, nay đã hồi hương  hầu hết có mặt.  Nhiều người đã được Minh đế tuyên dương công trạng và  ban thưởng trọng  hậu. Đặc biệt viên Chủ Sự Lê Trừng, tuy không trực tiếp  dự vào cuộc  viễn chinh, cũng được tuyên dương và thăng lên chức Lang  Trung (2)  thuộc Bộ Công. Vua Minh còn muốn ban tặng Nguyễn phu nhân hai  cây lụa  bích liên nữa, nhưng Lê Trừng từ chối:


-Muôn tâu, hạ thần không  có công lao chi đáng kể mà thánh thượng đã  ban ân sủng như thế là hậu  lắm rồi. Tiện phụ vốn là người kiệm ước,  không ưa xa xỉ, lần trước  thánh thượng đã ban cho hai cây lụa bích liên, vẫn còn cất kỹ để ghi  nhớ hồng ân chứ chưa dám dùng vào việc gì cho xứng đáng. Nay thánh  thượng lại ban tặng nữa e tiện phụ càng lúng túng,  hổ thẹn. Dám xin  thánh thượng dùng số lụa ấy để ban cho người khác.


Vua Minh cười rất cởi mở:


-Lụa bích liên là thứ sản  phẩm thời thượng mà bất cứ hạng phụ nữ nào cũng ưa thích, trân quí,  riêng khanh lại không muốn nhận cũng lạ thật. Nhưng thôi, tùy ý khanh.  Vậy, trẫm ban cho khanh mấy hũ rượu Thiên Khánh  chắc hợp ý khanh hơn,  được chứ?


Lê Trừng sợ từ chối nữa sẽ làm phật lòng vua, bèn sụp xuống bái tạ:


-Tạ ơn bệ hạ! Bệ hạ ban cho thứ này thì hạ thần xin nhận lãnh!


Sau khi dự Hội Thái Hòa  về, Lê Trừng có vẻ trầm tư hơn là hân hoan như những người khác. Ông  không một lời khoe khoang với ai về vụ ông được ân thưởng đặc biệt. Đến  nỗi chính trong gia đình ông cũng chẳng có  ai biết đến vụ này. Trong  khi những gia đình được ân thưởng, nhất là những gia đình có người đi  viễn chinh mới được đoàn viên đều tổ chức ăn mừng rầm rộ thì tư dinh Lê  Trừng hoàn toàn lặng lẽ. Nhiều người đã khen  Lê Trừng về đức khiêm  tốn. Cho đến một hôm Nguyễn phu nhân đến viếng  chùa Phúc Lạc thì gặp  Cao phu nhân. Cao phu nhân vui mừng hỏi đùa:


-Lê công mới được thánh thượng trọng thưởng, tuyên dương dường ấy sao chưa thấy tổ chức ăn mừng gì cả? Bộ lơ đi sao?


Nguyễn phu nhân cười thành thật trả lời:


-Tướng công tôi làm việc  siêng năng, lâu lâu thánh thượng lại thăng  cho một hai trật lương cũng  là chuyện thường chứ có gì mà gọi là trọng  thưởng, tuyên dương?


Cao phu nhân lộ vẻ ngạc nhiên hỏi lại:


-Hiền muội có thể bình  thản đến thế ư? Từ chức Chủ Sự thăng lên chức  Lang Trung, lại ban cả  ngự tửu, cả lụa bích liên, ân sủng đến vậy mà  hiền muội cho là bình  thường ư? Nhưng hình như Lê công từ chối không  nhận lụa bích liên thì  phải. Thật đáng tiếc!


Nguyễn phu nhân lại lộ vẻ ngạc nhiên:


-Cao phu nhân không đùa  đấy chứ? Phu nhân nghe đâu mà biết tướng  công tôi được thăng chức Lang  Trung, được ban cả ngự tửu, cả lụa bích  liên?


-Chị đâu dám đùa! Chính tướng công nhà chị nói với chị thế đấy!


Nét mặt Nguyễn phu nhân bỗng tái đi, bà hỏi thêm:


-Thế tướng công có cho phu nhân biết nhà tôi được trọng thưởng vì công trạng gì không?


Cao phu nhân kêu lên:


-Trời đất ơi! Hiền muội ở trong nhà mà chẳng biết Lê công lập được công trạng gì?


-Quả thật tôi không hề biết!


-Việc bình định nước An  Nam thành công sớm phần lớn cũng nhờ sự đóng  góp công sức của ông nhà  đấy! Đường công danh của Lê công chắc còn  nhiều hứa hẹn. Mai sau đắc  chí lớn hiền muội đừng quên bạn bè nhé!


Nguyễn phu nhân toát mồ  hôi, mặt mày choáng váng, bà phải vịn vào  vai một tì nữ mới đứng vững  được. Điều bà từng lo lắng áy náy trước kia không ngờ đã xảy ra thật!  Không còn hi vọng đó chỉ là một tin nhảm nữa,  bà tìm cách hỏi cho tách  bạch sự việc:


-Vụ dẹp yên xứ An Nam là do các tướng lãnh viễn chinh thực hiện chứ  tướng công tôi ở tại triều làm sao mà lập công lớn được?


Cao phu nhân nói:


-Hiền muội nói sao vậy?  Chính tướng công chị đã nghe rõ lời thánh  thượng tuyên dương công trạng  của quan Chủ Sự trước mặt bá quan văn võ  thì lầm vào đâu được? Thánh  thượng khen nhờ những tin tức chính xác do  quan Chủ Sự cung cấp nên  triều đình đã chỉ thị cho Trương Tổng binh tấn  công gấp vào các sào  huyệt cuối cùng của bọn phản loạn để tiêu diệt sạch  chúng nó đấy. Như  thế không phải là Lê công đã góp công rất lớn sao?


Nguyễn phu nhân nghe xong bất giác buông một tiếng thở dài. Người bà như muốn khuỵu xuống. Cao phu nhân thấy vậy hỏi:


-Hiền muội sao thế? Hôm nay không được khỏe à?


-Không hiểu sao mấy hôm  nay tôi thấy trong người khác khác. Có lẽ  tại tôi ham đọc sách, ít hoạt  động quá chăng? Thế phu nhân nghe tình  trạng vua quan An Nam bây giờ  ra sao?


Cao phu nhân thản nhiên đáp:


-Nghe nói tất cả vua quan  kẻ bị giết, người tự tử hết sạch. Họ cũng  anh dũng đấy chứ! Từ nay  triều đình khỏi lo gì về An Nam nữa. Giờ đã rõ  công lao Lê công to thế  ấy, hiền muội không tổ chức khao vọng cũng là  việc thiếu sót đấy!


Nguyễn phu nhân ngượng ngùng nói:


-Tới giờ tôi mới được phu  nhân cho biết chuyện đó, từ từ tính sau  vậy. Hôm nay tôi không được  khỏe, xin về nghỉ trước. Phu nhân cứ tiếp  tục đi viếng chùa. Chúng ta  sẽ gặp lại nhau!

*

Nguyễn  phu nhân ra về với  tâm trạng u uất, tủi nhục lẫn phẫn nộ. Bà vào phòng  riêng đóng cửa nằm  khóc, không ăn uống gì cả. Buổi chiều, khi Lê Trừng  về dinh, không  thấy vợ đón chào, hỏi người nhà mới biết bà đang mệt. Ông  vào phòng  riêng của vợ, thấy vợ dáng vẻ tiều tụy, đôi mắt sưng húp lên  thì lo  lắng hỏi:


-Phu nhân sao thế? Có chuyện gì xảy ra không?


-Cám ơn tướng công, không  có gì. Nghe nói tướng công vừa được hoàng  thượng ban thưởng trọng hậu  lắm, sao không cho vợ con biết để mừng?  Thiên hạ đang chờ nhà ta khao  vọng đấy!


Lê Trừng giật mình nói:


-Ai nói chuyện đó với phu  nhân? Vua có ban thưởng thật đấy, nhưng  cha già ta, chú ta, em trai ta  còn đang chịu cảnh khổ ải ở chốn biên  cương, ta vui vẻ gì mà khao vọng?


-Có thể cho thiếp biết nhờ công trạng gì mà tướng công được thăng thưởng không?


Lê Trừng có vẻ lúng túng, ông nói:


-Có lẽ ngài thấy ta làm việc siêng năng cần mẫn nên thăng thưởng thôi! Ý của thánh thượng ta làm sao hiểu được mà nói!


Phu nhân lại hỏi:


-Nghe thánh thượng còn ban ngự tửu, ban lụa bích liên nữa sao tướng công lại từ chối?


Lê Trừng càng lúng túng hơn:


-Ngự tửu ta có nhận, riêng  lụa bích liên trước đây vua có ban cho  phu nhân rồi nhưng thấy phu  nhân chưa dùng đến, nay lấy thêm làm gì, cho  nên ta không nhận.


Phu nhân khẽ lắc đầu. Thấy vợ cứ hỏi những điều mà mình không muốn nhắc tới, Lê Trừng tìm cách né tránh:


-Hôm nay công việc ở sảnh hơi nhiều, ta đang đói bụng và cũng hơi mệt. Phu nhân cứ nằm nghỉ, từ từ mình nói chuyện sau.


Phu nhân bèn gọi người nhà  dọn cơm cho chồng ăn rồi tiếp tục nằm. Nhưng dù gắng nhắm mắt mấy phu  nhân cũng không thể nào ngủ được. Cái tin  về số phận của nhóm vua quan  nhà Trần do Cao phu nhân cho biết hồi sáng  cứ mãi ám ảnh đầu óc bà.  Phen này thì dân An Nam đã hoàn toàn trở thành  những con cá nằm trên  thớt của người Minh! Sao họ tàn ác đểu cáng lộ  liễu đến thế? Nào việc  vua Minh bổ những viên hàng thần người An Nam đi  nhậm chức ở các nơi  rồi cho người đuổi theo giết họ dọc đường! Nào việc  vua Minh giả vờ  phong cho vua Trùng Quang làm Giao Chỉ Bố chính sứ rồi  bất ngờ trở mặt!  Càng suy nghĩ bà càng thấy giận chồng bà đã mù quáng  tiếp tay cho kẻ  thù làm những việc đó. Trước những câu hỏi của bà, Lê  Trừng trả lời một  cách miễn cưỡng, lúng túng chứng tỏ ông ta đã thiếu  thành thật. Việc  được vua thăng chức là một vinh dự lớn, sao Lê Trừng  lại phải giấu giếm  với vợ con? Tại sao ông lại được thăng thưởng vào dịp  nhà Minh tổ chức  ăn mừng bình định được xứ An Nam? Lê Trừng khó mà chối  cãi ông không nhúng tay vào kế hoạch tiêu diệt quân khởi nghĩa! Nhớ lại cái đêm chồng  bà uống rượu với Hồ Ngạn Thần, cơn uất giận trong người bà càng bừng  bừng nổi dậy. Nhục nhã quá rồi! Ai đời một nhà lãnh đạo quốc dân chống  giặc bây giờ trở lại giúp giặc tiêu diệt quốc dân? Thật  vô liêm sỉ hết cỡ! Không thể nhẫn nhịn được nữa! Nhất định phải hỏi cho  ra lẽ! Thế rồi phu nhân lại ngồi bật dậy...


Lê Trừng vừa ăn uống xong, phu nhân liền đến với ông ngay. Bà bắt đầu gợi chuyện:


-Cách đây hơn hai năm, sứ giả An Nam là Hồ Ngạn Thần sang chầu thánh thượng, có đến nhà mình uống  rượu với tướng công một đêm, không biết  bây giờ ông sứ giả ấy ra sao,  tướng công nghe tin tức gì không?


Câu hỏi ấy như một gáo  nước lạnh tạt thẳng vào mặt Lê Trừng. Ông  biết ngay việc làm ám muội  của mình hết phương giấu giếm vợ con! Ông cảm thấy xấu hổ cho cái bản  chất bạc nhược, cầu an quá đáng của mình! Ông  đâu phải là hạng người ham công danh phú quí đến nỗi đánh mất lương tri!  Chính cái bản chất  quá bạc nhược, quá cầu an, quá lo nghĩ đến sự an  nguy cho những người  thân làm ông mất sáng suốt, đã đưa đẩy ông tới tình  trạng dở sống dở  chết hôm nay! Ông đã thấy cái lý lẽ lập công để cứu  cha ông, cứu chú  ông, cứu em ông, cứu dòng họ ông không còn đủ sức để  thuyết phục ai  nữa! Vợ con ông cũng không còn coi trọng tư cách của ông  được, ông còn  biết sống với ai? Ông cảm thấy xấu hổ vì ông đã phản bội  những người đã  từng hết lòng tin tưởng, trông cậy vào ông, hết lòng ủng  hộ ông trong  công cuộc chống quân xâm lăng trước đây! Bây giờ thì mọi  chuyện đã vỡ  lở cả rồi! Trong những giây phút cao điểm của lòng hối hận,  ông đã trả  lời vợ ông một cách thành thật, buông xuôi:


-Hồ Ngạn Thần đã bị vua Trùng Quang giết vì có người cáo giác ông ta đã tiết lộ bí mật quốc gia!


Phu nhân hé một nụ cười mỉa mai:


-Đáng lắm! Thiếp đã biết  ông ta phạm tội đó ngay đêm ông ta uống  rượu với tướng công! Chính  tướng công là người đã làm hại ông ấy!


Lê Trừng lúng túng giải thích thêm:


-Không hẳn do vậy đâu.  Ngoài việc tiết lộ bí mật quốc gia, Ngạn Thần  còn bị kết tội nhận chức  tước của ngoại bang vì ông được thánh thượng  phong làm tri phủ Nghệ An!


-Thế vua Trùng Quang bây giờ ra sao?


-Ông ta cũng chết rồi.


-Ông ta chết như thế nào?


-Ông ấy bị quan Tổng binh  Trương Phụ đánh bại phải chạy vào đất Lào  nhưng rồi cũng bị bắt. Trên  đường giải về Tàu, ông ấy cùng với tướng  Đặng Dung đã nhảy xuống biển tự tử.


-Thế còn hai danh tướng Nguyễn Cảnh Dị và Nguyễn Súy thì sao?


-Nghe nói Nguyễn Cảnh Dị  khi bị bắt đã không chịu khuất phục, mắng  chửi Trương Tổng binh thậm tệ  nên Trương Tổng binh đã cho giết đi lấy  gan làm đồ nhắm rượu. Nguyễn  Súy thì liều mạng lừa lúc bất ngờ đập cái  gông đang đeo trên cổ vào đầu  viên quan áp giải đang ngồi gần đó rồi  cướp gươm của anh ta để tự sát!


Phu nhân ngồi ủ rũ một lát rồi nói:


-Thôi, nói chừng đó cũng đủ rồi. Tướng công đi nghỉ đi!


Nghĩ là phu nhân đã bỏ qua  chuyện, Lê Trừng cảm thấy nhẹ hẳn người.  Không bỏ lỡ cơ hội để thoát  khỏi những nỗi dằn vặt nặng nề khi đối diện  với vợ ông, ông nói luôn:


-Dù  sao mọi chuyện cũng  đã xảy ra rồi, không ai có khả năng cải sửa gì được  nữa. Phu nhân cũng  không nên suy nghĩ nhiều về chuyện đau lòng ấy thêm  hại sức. Ta cũng  cần đi nghỉ để ngày mai còn làm việc...

*

Sau khi Lê Trừng đi nghỉ, Nguyễn phu nhân sai người nhà nấu nước thơm để tắm gội. Người nhà mời ăn cơm nhưng bà từ chối:


-Các ngươi cứ ăn đi, khỏi để phần. Ta không thấy đói.


Sau đó bà gọi người chuyên lo việc cơm nước cho bà là Thị Mận đến dặn:


-Ta hơi mệt, đêm nay ta cần yên tĩnh để nghỉ ngơi. Nếu ta không gọi thì em không được tự tiện vào phòng ta. Nhớ đấy!


Thế rồi bà vào phòng đóng  cửa lại. Thấy thái độ lạ lùng của chủ, Thị  Mận hơi ngạc nhiên, nhất là  suốt ngày ấy không thấy bà ăn gì cả. Sau  khi ngủ một giấc, đến khuya  thức dậy ả thấy đèn trong phòng phu nhân vẫn  còn sáng. Ả nghĩ có thể là  phu nhân đã ngủ quên. Tuân lời chủ đã dặn, ả  không dám tự tiện vào tắt  đèn như mọi khi. Ả lại làm một giấc khác. Đến  khi gà đã gáy sáng lần  thứ ba, ả thức dậy, thấy ánh đèn từ phòng phu  nhân vẫn tỏa ra, ả đâm ra  nghi chắc có việc gì xảy ra. Đã mấy lần ả định  gọi nhưng nhớ lời chủ  đã dặn lại thôi.


Khi Lê Trừng thức dậy uống trà, thấy vợ chưa dậy, ông hỏi:


-Phu nhân còn ngủ hả?


Thị Mận liền cho Lê Trừng  biết phu nhân đã để đèn trong phòng sáng suốt đêm mà không thấy động  tĩnh gì cả. Lê Trừng nghe cũng đâm ra nghi ngại. Ông thân đến gõ cửa  gọi phu nhân nhưng không nghe tiếng trả lời.  Ông vói tay mở cửa mới  biết cửa đã được chốt kỹ. Gõ thêm một hồi nữa vẫn  chẳng thấy gì. Ông hoảng hốt sai người phá cửa phòng để vào. Khi cửa đã  được mở, mọi người  kinh hoàng chứng kiến một cảnh tượng hãi hùng trước  mắt: Thân xác của Nguyễn phu nhân đã treo lủng lẳng dưới sà nhà. Trên  giường ngủ, bên  dưới chân phu nhân có một chiếc ghế đẩu đã lật nằm.


Lê Trừng vội cho hạ xác vợ  ông xuống. Nhưng xác phu nhân đã cứng đờ, hết mong cứu chữa. Lê Trừng  liền ôm lấy xác vợ vật vã khóc lóc. Tất  nhiên ông biết duyên cớ nào đã  đưa đến cái chết của vợ ông. Ông hối hận  vô cùng. Tiếng khóc của ông  vừa thống thiết, vừa uất nghẹn khiến những  người chung quanh đều phải  rơi nước mắt. Mối xúc động vì sự mất mát quá  lớn lẫn nỗi uất ức riêng  dồn nén cực độ khiến thể xác ông không chịu  nổi. Ông đã ngất đi một  hồi. Xưa nay chưa hề có một người đàn ông nào  khóc vợ thống thiết đến  thế. Thật ra, không phải ông chỉ khóc vì thương  tiếc người vợ hiền mà  ông còn khóc cho chính ông! Ông đã phạm một lỗi  lầm quá lớn. Ông biết  ngoài cái hậu quả thảm khốc này, ông sẽ phải còn  đối diện với bao nỗi  dày vò hối hận khác nữa!


Khi đã được người nhà cứu  tỉnh lại, đầu óc Lê Trừng vẫn chưa hết  căng thẳng. Ông thẫn thờ nhìn  cái vật oan nghiệt mà Nguyễn phu nhân đã dùng để kết liễu đời mình rồi  lẩm bẩm:


-Không ngờ món báu vật thánh thượng ban cho gia đình ta hay lại trở thành một món trong hình phạt tam ban triều điển (3)!


Mọi người giật mình nhìn  lại. Thì ra vật đó chính dải lụa bích liên,  một thứ lụa quí mà Minh đế  đã ban tặng cho gia đình Lê Trừng ba năm  trước. Một người hầu lại trao  cho ông một bức thư của phu nhân. Ông sụt  sùi đọc:


“Thưa tướng công,

Khi tướng công đọc bức  thư này thì thiếp đã đi xa rồi! Thiếp biết  tướng công đau lòng lắm  nhưng thiếp đâu biết xử trí cách nào khác hơn!  Hành động tự hủy mình  của thiếp không phải vì thiếp muốn xa lánh tướng công đâu! Chung sống  với tướng công bao nhiêu năm thiếp hiểu tướng công hơn ai hết. Tướng  công đúng là một thiên tài hiếm hoi, không ai phủ nhận được. Nhưng  tướng công lại có những cá tính quá thật thà, quá tin người  và quá cầu  an! Những cá tính đó đã khiến tướng công dễ bị khủng bố tinh  thần, đã  đẩy tướng công vào chỗ lỡ lầm, nói trắng ra là đẩy tướng công  vào đường  tội lỗi: giúp kẻ thù tiêu diệt chính nòi giống mình, dân tộc  mình! Tội  lỗi đó không thể tha thứ được! Khi thiếp nói ra điều này, sự  việc đã  xảy ra, chẳng còn ai cải sửa gì được nữa. Nhưng thiếp vẫn phải  nói. Nói  để nhắc nhở, để cảnh giác những kẻ khác khi gặp hoàn cảnh tương  tự!


Tướng công biết tại  sao thiếp dùng dải lụa bích liên để kết liễu đời  mình không? Vì nó  tượng trưng cho một thứ mồi đã nhử chúng ta vào con  đường lầm lỡ! Chính  nó là nguyên nhân ban đầu! Thiếp phải trả lại nó cho  vua Minh!


Cổ thư có chép chuyện  Chuyên Chư như sau: Chuyên Chư là một tráng sĩ  rất có hiếu với mẹ già  và cũng rất dũng cảm, trung hậu. Công tử Quang  muốn cướp ngôi vua Ngô  là Vương Liêu nên muốn nhờ tay Chư ám sát Vương  Liêu. Thấy Chư nhà  nghèo, không đủ sức phụng dưỡng mẹ già, Quang luôn  giúp đỡ Chư vàng bạc  để lấy lòng. Chư vô tư, thật thà, từ chối không  được nên cứ nhận. Khi  mẹ Chư thấy được Chư cung phụng đầy đủ quá thì  sinh nghi, bèn hỏi  nguyên do. Chư cứ thật tình trả lời mẹ. Mẹ Chư nghe  xong nói với Chư:  “Khi một người không phải thân thích máu thịt của con  mà lại giúp đỡ  con một cách hào phóng như thế tức là người ấy đã mua máu  của con rồi  đó! Con phải lo mà trả nợ cho người ta đi!”. Thế rồi chờ  lúc Chư vắng  mặt, mẹ Chư thắt cổ tự tử. Công tử Quang liền đứng ra lo  việc tang chế  cho mẹ Chư. Sau đó Chuyên Chư đã thực hiện vụ ám sát Vương  Liêu thành  công nhưng cũng bị giết chết trong vụ đó.


Chuyên Chư đã lỡ dùng  vàng của công tử Quang để nuôi mẹ nên phải trả  nợ. Tướng công đã lỡ  nhận ân thưởng của vua Minh nên phải làm theo mệnh  lệnh. Thiếp đã lỡ  nhận lụa quí của vua Minh nên không dám cương quyết  ngăn cản việc làm  của tướng công!


Chuyên Chư chỉ trả nợ  bằng thân xác, còn chúng ta đã phải trả nợ  bằng danh dự của cả một dòng  họ, đáng tiếc thay! Bởi thế, thiếp phải tự  hủy mình nhằm mục đích cứu  vãn được phần nào cái danh dự to lớn của dòng  họ nhà chồng! Thiếp xin  tỏ thật, tới giờ phút này tình yêu của thiếp  đối với tướng công vẫn  không hề thay đổi! Thiếp mong từ nay tướng công  phải gắng tu nhân tích  đức để đền bù phần nào những tội lỗi mà tướng  công đã lỡ gây nên cho  dân tộc Đại Việt!


Mấy lời chân thành cuối cùng xin dâng tướng công! Từ nay xin vĩnh biệt!”


Đọc xong bức thư của vợ, Lê Trừng ủ rũ ngồi xuống ghế than thở:


-Ta phát điên mất! Ta đã  làm một việc ô nhục! Thật tình ta đâu có  lòng nào muốn hại dân An Nam!  Ai đời một vị Tả tướng quốc, một vị phó  vương An Nam lại cam tâm nghe  giặc quay lại làm hại chính quốc dân An  Nam! Ôi thôi! Bao giờ ta mới  rửa sạch được cái vết nhơ này?


Rồi ông lại gục xuống xác vợ khóc nức nở:


-Xin phu nhân hiểu và tha thứ cho ta! Ta đâu có lòng nào phản bội dân An Nam! Nếu phu nhân cũng không hiểu ta nữa thì còn ai hiểu được ta?


Ngô Viết Trọng


(Tuyển Tập Truyện Sử, 2019)

(1)Binh trượng cục: tương tự cục quân nhu.

(2)Lang Trung: tương đương chức trưởng Ty ngày nay.

(3)Tam  ban triều  điển: Ba hình phạt thời xưa do vua ban cho tội nhân để tự  chọn cái chết  của mình: một thanh gươm để tự sát, một dải lụa để thắt  cổ, một chén  thuốc độc để uống.

VĂN 1.png

VĂN THƠ NHẠC

bottom of page