top of page
Banner edge

VĂN THƠ NHẠC

VĂN

SÀI GÒN MỘT THUỞ - UỐNG MÔI EM NGỌT
VĂN 1.png
VĂN 2.png

LƯƠNG THÁI SỸ & AN DÂN

Bạn đã uống cà phê nhiều, bạn biết muốn pha một ly cà phê tuyệt vời đâu có  khó: Cà phê sẻ loãng nước nhưng đậm mùi thơm, cà phê Mít đặc quánh mà vô  vị, hãy chọn một tỷ lệ pha trộn thích hợp là đã đi được 70% đoạn đường  rồi; muốn kẹo thêm nữa hả? Muốn hưởng cái cảm giác chát chát, tê tê đầu  lưỡi phải không? Dễ mà, thêm vào chút xác cau khô là xong ngay. Bạn muốn  có vị rhum, thì rhum; bạn thích cái béo béo, thơm thơm của bơ, cứ bỏ  chút Bretel vào. Bạn hỏi tôi nước mắm nhĩ để làm gì à? Chà, khó quá đi,  nói làm sao cho chính xác đây! Thì để cho nó đậm đà. Đậm làm sao? Giống  như uống coca thì phải có thêm chút muối cho mặn mà đầu lưỡi ấy mà. Uống  chanh đường pha thêm chút rhum cho nó ra dáng tay chơi. Như kẻ hảo ngọt  nhưng vẫn cắn răng uống cà phê đen không đường cho lập dị. Thèm đá muốn  chết nhưng cứ chốn bạn nhậu thì nằng nặc đòi uống chay không đá cho  khác người, cho đẳng cấp.


Tôi không biết, không tả được, mời bạn hãy thử và tự cảm lấy. Bạn  đòi phải có tách sứ, thìa bạc; bạn nói phải nghe nhạc tiền chiến, phải  hút Capstan (dộng vài phát hết gần nửa điếu và rít đỏ đầu), Ruby quân  đội hay Basto xanh mới đã đời, thú vị phải không? Thì đó, bạn đã có đủ  hết những gì bạn cần, sao không tự pha ra mà uống, lại cứ đòi đi uống cà  phê tiệm, dị hợm không? Nói vậy chứ tôi biết, tôi không trách bạn đâu.  Cà phê ngon chỉ mới được một nửa, nhưng chúng ta đâu chỉ cần uống cà  phê, chúng ta còn ghiền “uống” con người tại quán cà phê; “uống” không  khí và cảnh sắc cà phê; “uống” câu chuyện quanh bàn cà phê và nhiều thứ  nữa. Vậy thì mời bạn đi với tôi, quanh quanh Sài Gòn làm vài ly chơi. Dĩ  nhiên là tưởng tượng, cả bạn và tôi đều biết, đã xa rồi, biền biệt lắm  rồi cái thời sinh viên (SV) ngày đó.


Bắt đầu từ thập niên 70, những năm Sài Gòn đã trải qua những trở  mình to lớn; những cơn lốc kinh hồn; những bùng vỡ vượt mọi giới hạn;  những xô đẩy, mời gọi đầy lôi cuốn và cũng nhiều cạm bẫy. Niềm vui và  nỗi hy vọng về một vận hội mới sau biến cố 1963 qua nhanh theo với sự  yểu tử tất yếu của những người đã nhân danh một cuộc cách mạng, nhưng là  thứ cách mạng nửa vời, có khả năng đả phá nhưng lại thiếu bản lãnh và  tâm lực để xây dựng, kiến tạo; người Mỹ đổ bộ càng lúc càng đông, theo  với nó là các Snack Bar, gái làm tiền và sự phá sản nghiêm trọng của  nhiều giá trị luân lý và đạo đức. Chiến trường càng lúc càng khốc liệt,  càng áp gần và đã trở thành một nỗi ám ảnh dai dẳng; một cơn ác mộng  thường trực.


Miền Nam Việt Nam những năm giữa thập niên 60 đến đầu thập niên 1970  như vậy đó. Tuổi trẻ Việt Nam lột xác: lớn ra và tự già đi trước tuổi  của mình. Những “lưu bút ngày xanh” đành gấp lại; những mơ mộng hoa bướm  tự nó đã thành lỗi nhịp, vô duyên. Tiếng cười dường như ít đi, kém  trong trẻo hồn nhiên; khuôn mặt, dáng vẻ dường như tư lự, trầm lắng hơn  và đầu óc không còn, cũng không thể vô tư nhởn nhơ được nữa. Những điếu  thuốc đầu tiên trong đời được đốt lên; những ly cà phê đắng đầu tiên  trong đời được nhấp vào và dù muốn hay không, tuổi trẻ đã thực sự bị chi  phối, và phải thường xuyên đối diện với những bất hạnh của dân tộc;  những thảm kịch của thân phận mình và quán cà phê trở thành cái nơi chốn  hẹn hò để dàn trải tâm tư, để trầm lắng suy gẫm. Có một chút bức thiết,  thật lòng; có một chút làm dáng, thời thượng. Thông cảm giùm đi, tập  làm người lớn mà.


Đối với một thanh niên tỉnh lẻ mới mẻ và bỡ ngỡ, Sài Gòn lớn lắm,  phồn vinh và náo nhiệt lắm. Trong suốt nhiều tuần lễ đầu tiên đi lại  phải dè dặt và lúc nào cũng lẩm nhẩm câu “thần chú”: Phan Thanh Giản đi  xuống, Phan Đình Phùng đi lên và mường tượng ra một “lá bùa” như một thứ  kim chỉ nam khả dụng. Hai con đường một chiều và ngược nhau như cái  xương sống xuyên dọc trung tâm thành phố giúp định hướng, tạo dễ dàng  cho việc di chuyển. Dĩ nhiên nếu tính từ khu Chợ Cá tôi lưu trú, Phan  Thanh Giản được hiểu như bao gồm cả khúc Minh Mạng nối từ Ngã Bảy đến  Ngã Sáu Chợ Lớn và Phan Đình Phùng phải cộng thêm khúc Lý Thái Tổ rẽ  phải đến Ngã Bảy hay rẽ trái đến Trần Hoàng Quân để về Ngã Sáu.


Về sau khi đã khá quen quen, lá bùa được vẽ lớn thêm ra: Từ Phan  Thanh Giản, rẽ phải theo Lê Văn Duyệt sẽ đến phố chính Lê Lợi, nhà sách  Khai Trí, chợ Bến Thành, rẽ trái lên Hòa Hưng, Bảy Hiền; từ Phan Thanh  Giản rẽ phải ở Hai Bà Trưng sẽ đến bến Bạch Đằng, rẽ trái sẽ qua cầu  Kiệu, Ngã Tư Phú Nhận; cũng từ Phan Thanh Giản rẽ trái ở Đinh Tiên Hoàng  sẽ đến rạp Casino Dakao, Lăng Ông Bà Chiểu và hướng ngược lại là trường  Văn Khoa, Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp. Cứ như thế, cái xe cọc cạch,  trung thành như một người bạn thân thiết lê la khắp Sài Gòn, Chợ Lớn,  Gia Định.


Những ngày này, tôi là khách thường trực của quán Cà phê Thu Hương  đường Hai Bà Trưng. Quán nằm ở một vị trí đẹp, chiếm ba lô đất ngó chéo  qua phía trại hòm Tobia; nơi đây có một căn phòng hẹp vừa đặt quầy thu  tiền, vừa là chỗ ngồi cho những ai thích nghe nhạc với âm thanh lớn,  phần còn lại là một sân gạch rộng, có mái che nhưng không ngăn vách, từ  trong có thể nhìn rõ ra đường qua những song sắt nhỏ sơn xanh với một  giàn hoa giấy phủ rợp. Ngồi đây có thể nghe được văng vẳng tiếng nhạc  vọng ra từ bên trong; cảm được chút riêng tư cách biệt, nhưng đồng thời  cũng có thể nhận ra được sức sống bừng lên mỗi sáng, dáng vẻ mệt mỏi, u  ám mỗi chiều đang lặng lờ chảy qua trên đường phía ngoài.


Chủ quán ở đây là một người đặc biệt: Khó chịu một cách dễ thương.  Hình như với ông, bán cà phê chỉ là thú tiêu khiển và pha cà phê là một  nghệ thuật kỳ thú. Ông hãnh diện với tên tuổi của Thu Hương và muốn bảo  vệ nó. Bạn là khách uống cà phê phải không? Xin cứ ngồi yên đó, việc của  bạn là uống vậy thì đừng táy máy đụng vào làm hư cà phê của tôi. Cà phê  được bưng tới, ông chủ sẽ ngồi đâu đó quan sát và chờ. Yên tâm đi, đừng  nôn nóng gì cả, bạn sẽ có cà phê ngon để uống mà.


Ông chủ sẽ xuất hiện đúng lúc cạn phin, sẽ bỏ đường cho bạn, khuấy  đều cho bạn và sẽ lịch sự “xin mời” khi mọi việc hoàn tất. Ly cà phê như  vậy mới là cà phê Thu Hương, đó là cung cách của Thu Hương, đặc điểm  của Thu Hương. Nhiều người mới đến lần đầu không biết, cà phê bưng tới  là tự lo liệu cho mình đều bị chỉnh ngay: Ông nôn nóng mở phin lỏng như  vậy nước chảy ào ào còn gì là Thu Hương! Ông bỏ đường ngọt như ăn chè  vậy còn gì là Thu Hương! Ống khuấy cốp cốp kiểu đó cà phê sẽ chua lét là  ông giết Thu Hương rồi! “Thằng cha” này rắc rối thật nhưng là sự rắc  rối có thể hiểu được, thông cảm được miễn là cà phê ngon.


Mà cà phê Thu Hương ngon thiệt, ngon lắm. Trong lĩnh vực kinh doanh  quán cà phê, có người dùng âm thanh; có người dùng ánh sáng và cảnh trí;  có người nhờ sự duyên dáng của tiếp viên; có người dùng phẩm chất của  cà phê để hấp dẫn khách. Ông chủ Thu Hương đã chọn cách cuối cùng, cách  khó nhất và ông đã thành công. Khách đến với Thu Hương là ai? Nhiều lắm,  có thể họ từ bên trường Luật qua, từ dưới Văn Khoa, Dược, Nông Lâm Súc  lên; từ Trung Tâm Văn Hóa Pháp, Hội Việt Mỹ lại; từ Huỳnh Thị Ngà,  Nguyễn Công Trứ, Vương Gia Cần, Võ Trường Toản, Thư Viện Quốc Gia tới,  quanh quanh khu Tân Định, Đa Kao cả mà.

Cũng có người từ xa hẹn nhau đến nhưng dù từ đâu họ đều có điểm  giống nhau là tất cả đều trẻ và đều có vẻ “chữ nghĩa” lắm; “ông” nào  “bà” nào cũng tha tập cours quằn tay, cộng với nào là Hố Thẳm Tư Tưởng  của Phạm Công Thiện, Cho Cây Rừng Còn Xanh Lá của Nguyễn Ngọc Lan, Nói  Với Tuổi 20 của Nhất Hạnh; các tạp san Tư Tưởng, Sử Địa, Bách Khoa, Văn  và v…v… Ở Thu Hương dĩ nhiên là có thể “uống ly chanh đường, uống môi em  ngọt” hay nhiều thứ giải khát khác; tuy nhiên, phần lớn là nhâm nhi ly  cà phê.


Thu Hương nổi tiếng như vậy; ông chủ điệu như vậy, dù rành hay không  cũng phải ráng tỏ ra sành điệu với người ta chứ! Lại còn phải cố bậm  môi kéo Basto xanh cho có vẻ phong trần. Cứ như thế mà trầm ngâm suy tư,  rì rào tâm sự; đốt bao tử, đốt phổi và đốt thời gian. Nghĩ lại thật phí  phạm và đáng tiếc nhưng hồi đó thì không thấy như thế. Phải như vậy chứ  sao! Thời chiến mà, buổi nhiễu nhương mà! Ngày đó tôi thường ngồi Thu  Hương với T, một người bạn đang học năm thứ hai ở trường Y khoa. Anh là  người rất mê giáo sư Trần Ngọc Ninh, coi ông là một nghệ sĩ tài hoa, một  tay dao bậc thầy trong ngành giải phẫu và vẫn thường say sưa kể việc  thầy Ninh có thể cầm lưỡi dao lam khẻ vào tập giấy quấn thuốc và cho  biết trước là sẽ rạch đúng mấy tờ.


Bạn tôi đúng là người trời sinh ra để làm thầy thuốc, anh muốn xoa  dịu mọi khổ đau và không chịu được những điều tàn nhẫn, thô bạo. Hồi  sinh viên N té lầu chết ở trường Y khoa, báo đăng nói là tai nạn nhưng  không biết từ đâu bạn tôi khẳng định đây là một vụ ám sát, thanh toán  lẫn nhau và anh đau đớn, tức giận lắm (thật ra bạn tôi lầm, vì vụ té lầu  và cái chết của N tại trường Luật là hoàn toàn khác nhau). Người với  người cùng trăm trứng chui ra, chả lẽ không còn cách đối đãi nào tốt hơn  với nhau hay sao? Đến lúc này anh đã có câu trả lời cho điều ám ảnh  nhiều năm trước: Không phải không có cách mà là dường như người ta không  cần và cũng không muốn phải chăng với nhau. Đau thật, nỗi đau quặn thắt  tim gan.


Bạn thường ăn phở gà Hiền Vương, phở Pasteur; bạn thường đi qua đi  lại liếc liếc mấy bộ đồ cưới đẹp ở nhà may Thiết Lập, vậy bạn có biết cà  phê Hồng ở đâu không? Thì đó chứ đâu, gần nhà may Thiết Lập, cách vài  căn về phía đường Nguyễn Đình Chiểu, ngó chéo qua mấy cây cổ thụ ở bờ  rào Trung tâm Thực nghiệm Y khoa (Viện Pasteur). Tôi phải hỏi vì tôi  biết có thể bạn không để ý. Quán nhỏ xíu hà, với lại cái tên Hồng không  biết do ai đặt, gọi riết thành quen chứ thực sự dường như quán không có  bảng hiệu, và tiền diện của nó trông ủ ê cũ kỹ lắm chứ không sơn phết  hoa hòe, đèn treo hoa kết gì cả. Từ ngoài nhìn vào, quán như mọi ngôi  nhà bình thường khác, với một cái cửa sổ lúc nào cũng đóng và một cánh  cửa ra vào nhỏ, loại sắt cuộn kéo qua kéo lại.

SÀI GÒN MỘT THUỞ - UỐNG MÔI EM NGỌT

Quán  hẹp và sâu, với một cái quầy cong cong, đánh verni màu vàng sậm, trên  mặt có để một ngọn đèn ngủ chân thấp, với cái chụp to có vẽ hình hai  thiếu nữ đội nón lá; một bình hoa tươi; một con thỏ nhồi bông và một cái  cắm viết bằng thủy tinh màu tím than. Phía sau, lúc nào cũng thấp  thoáng một mái tóc dài, đen tuyền, óng ả, vừa như lãng mạn phô bày vừa  như thẹn thùng, che giấu. Cà phê Hồng, về ngoại dáng, thực ra không có  gì đáng nói ngoài cái vẻ xuề xòa, bình dị, tạo cảm giác ấm cúng, thân  tình và gần gũi; tuy nhiên, nếu ngồi lâu ở đó bạn sẽ cảm được, sẽ nhận  ra những nét rất riêng, rất đặc biệt khiến bạn sẽ ghiền đến và thích trở  lại.


Hồi đó nhạc Trịnh Công Sơn, đặc biệt là loại nhạc “mệt mỏi” cỡ “đại  bác đêm đêm…” hay “đàn bò vào thành phố…” đã trở thành một cái “mốt”,  một cơn dịch truyền lan khắp nơi, đậu lại trên môi mọi người, đọng lại  trong lòng mỗi người. Cà phê Hồng đã tận dụng tối đa, nói rõ ra là chỉ  hát loại nhạc này và những người khách đến quán – những thanh niên xốc  xếch một chút, “bụi” một chút (làm như không bụi thì không là trí thức) –  đã vừa uống cà phê vừa uống cái rã rời trong giọng hát của Khánh Ly.  Đến Hồng không chỉ có nghe nhạc về quê hương, chiến tranh và thân phận; ở  đây còn có thể đọc về những điều đó. Không hiểu do sáng kiến của các cô  chủ, muốn tạo cho quán một không khí văn nghệ, một bộ mặt trí thức hay  do tình thân và sự quen biết với các tác giả mà ở cà phê Hồng lâu lâu  lại có giới thiệu và bày bán các sách mới xuất bản, phần lớn là của hai  nhà Trình Bày và Thái Độ và của các tác giả được coi là dấn thân, tiến  bộ. Lại có cả Time, Newsweek cho những bạn nào khát báo nước ngoài. Tôi  đã đi quá xa rồi phải không?


Xin lỗi, cho tôi được mượn cơ hội này để nói về tuổi trẻ của chúng  ta một chút. Tôi đang trở lại với cà phê Hồng đây. Hồng là ai? Tôi không  biết, quán có ba cô chủ, ba chị em; người lớn nhất trên hai mươi và  người nhỏ nhất mười lăm, mười sáu gì đó. Nói thật lòng, cả ba cô đều  chung chung, không khuynh quốc khuynh thành gì nhưng tất cả cùng có  những đặc điểm rất dễ làm xốn xang lòng người: Cả ba đều có mái tóc rất  dài, bàn tay rất đẹp và ít nói, ít cười, trừ cô chị; cái kiểu ít nói ít  cười làm chết người ta. Còn cái dáng đi nữa, bạn còn nhớ không? Làm ơn  nhắc giùm để tôi tả cho chính xác đi, khó quá. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có  những lời hát khó giải thích nhưng dễ cảm nhận như “vết lăn, vết lăn  trầm” hay “vết chim di” gì đó có lẽ có thể mượn để hình dung ra dáng đi  của mấy cô chủ cà phê Hồng; nó nhẹ lắm, êm ái thướt tha lắm và cũng lặng  lờ khép kín lắm.


Chính cái vẻ lặng lờ vừa như nhu lệ thẹn thùng, vừa như kênh kiệu  kiêu sa, vừa lãng đãng liêu trai đó đã làm khổ nhiều trái tim trai trẻ  lắm, rất nhiều. Những năm 1980, cà phê Hồng không còn, dãy phố nhỏ buồn  thiu, im lìm và trống vắng như nét ảm đạm chung của toàn thành phố một  thời rộn rã. Đối diện nơi quán cũ, gần cuối bờ thành Viện Pasteur là một  bãi rác khổng lồ, ruồi nhặng đen nghịt và mùi hôi thối nồng nặc, phủ  trùm; ở đó, hàng trăm ông lão bà cụ; hàng trăm trẻ em trai gái tranh  nhau giành giật, đào móc từng chút sắt vụn, từng mảnh nhỏ nylon.


Tôi đã thường đứng lại rất lâu, nhìn cảnh não lòng này và tự hỏi:  Những người đã có thời ngồi đây mơ ước và hy vọng giờ đâu cả rồi? Còn  chị em cô Hồng: Những nhỏ nhẹ tiểu thư, những thon thả tay ngà, những  uyển chuyển “chim di” giờ mờ mịt phương nào? Ai có thể trả lời được về  số phận của những con người nhỏ nhoi trong thân phận chung của cả một  dân tộc! Nay khu vực này đã thay da đổi thịt nhiều, nhưng vẫn nhớ không  khí xưa của một thời làm cách mạng và phản kháng trong… quán cà phê!


Viện Đại học Vạn Hạnh mở cửa muộn màng nhưng ngay từ những năm đầu  tiên nó đã thừa hưởng được những thuận lợi to lớn về tâm lý: Hào quang  của phong trào Phật giáo đấu tranh từ nhiều năm dồn lại, cùng với những  tên tuổi chính trị đã giúp cho Đại học Vạn Hạnh được nhìn vừa như một cơ  sở giáo dục khả tín vừa như một tập hợp của những thành phần trẻ tuổi ý  thức và dấn thân nhất. Tuy nhiên, dường như cái hồn của Đại học Vạn  Hạnh được đặt tại một tiệm cà phê: Quán Nắng Mới ở dốc cầu, ngó chéo về  phía chợ Trương Minh Giảng. Quán Nắng Mới có nhiều ưu thế để trở thành  đất nhà của dân Vạn Hạnh, trước nhất vì gần gũi, kế đến là khung cảnh  đẹp, nhạc chọn lọc và cuối cùng, có lẽ quan trọng nhất là sự thấp thoáng  của những bóng hồng, có vẻ tha thướt, có vẻ chữ nghĩa.


Tôi quen với Nắng Mới vì họa sĩ HĐ Ngọc, bạn tôi có lúc thuê nhà ở  bên hông ĐH Vạn Hạnh; và NN Trường thuê nhà trong hẻm sâu gần quán cà  phê cóc của nhạc sĩ Lê Đô được biết đến với tập sách dạy tự học đàn  guitar Carulli. Chừng đó là quá đủ, quá đạt để phe ta tụ lại: Các anh  chị em thuộc khối Văn Thể Mỹ của nhạc sĩ PT Mỹ tấp vào nói chuyện văn  nghệ; nhóm làm thơ trẻ Nguyễn Lương Vỵ, Võ Chân Cửu – lúc đó đang lên và  đang chiếm đều đặn nhiều cột thơ trên báo Khởi Hành – ngồi đồng từ sáng  đến tối để… làm thơ; những “chuyên viên xuống đường và lợi dụng xuống  đường” cũng chụm đầu lại để bàn mưu kế.


Nhưng đông hơn cả, ấm áp hơn cả là những nhóm hai người, một tóc  dài, một tóc ngắn chờ vào lớp, chờ tan trường và chờ nhau ở Nắng Mới.  Mỗi lần có đêm không ngủ, sáng Nắng Mới không còn chỗ ngồi. Vạn Hạnh như  một lò lửa, một điểm nóng, một trung tâm. Hình như Nắng Mới đã sống với  Vạn Hạnh, sống theo Vạn Hạnh cho đến ngày cuối cùng. Nắng Mới nay không  còn. Những con người cũ tứ tán muôn phương. Cái nơi chốn đầy sức sống  và niềm tin ngày nào giờ tiêu điều buồn bã như dòng kinh nước đen uể oải  dưới chân cầu Trương Minh Giảng.


Có một quán cà phê thân quen nữa không thể không nhắc đến: Quán chị  Chi ở gần đầu đường Nguyễn Phi Khanh, cách không xa Casino Đa Kao. Thật  ra đây không phải là quán cà phê mà là quán trà; mà có lẽ cũng không thể  gọi là quán trà mà chỉ có thể nói là “chỗ uống trà ở nhà chị Chi” mới  hoàn toàn đúng. Bạn hãy tưởng tượng giùm tôi cái khu gia cư xưa cũ, rất  yên tĩnh và rất dễ thương, nằm phía sau rạp Casino Đa Kao, ở đó có những  con đường rất nhỏ, những ngôi nhà mái ngói phủ đầy rêu xanh, những hàng  bông giấy che kín vỉa hè; ở đó không có cái ồn ào náo nhiệt như ngoài  Trần Quang Khải, khúc đổ về Tân Định, cũng không có cái tập nập ồn ã của  đoạn Lê Văn Duyệt hướng về Lăng Ông; nó trầm lắng cô liêu và im ả tách  biệt lắm. Nhà nào cũng nhỏ, cất cao hơn mặt đường mấy bực tam cấp xi  măng, mở cửa ra là có thể nghe người bên trái nói, thấy người bên phải  cười và có cảm tưởng như có thể đưa tay ra bắt được với người đối diện  bên kia đường.


Quán chị Chi ở một trong những ngôi nhà này. Làm sao để nhận ra?  Không biết, tôi đã nói là không phải quán xá gì cả mà, chỉ là tới nhà bà  chị uống trà chơi vậy thôi và đã là nhà bà chị thì phải tự biết chớ,  cần gì hỏi. Phòng khách chị Chi – được gọi là quán – nhỏ lắm, chắc độ  chín mười thước vuông gì đó, chỉ đủ chỗ để đặt ba bốn chiếc bàn nhỏ. Nhà  không có nhạc, không trưng bày trang trí gì cả ngoại trừ một bức tranh  độc nhất treo trên vách, bức tranh đen trắng, cỡ khổ tạp chí, có lẽ được  cắt ra từ một tờ báo Pháp. Tranh chụp để thấy một bàn tay giắt một em  bé trai kháu khỉnh, vai đeo cặp sách, miệng phụng phịu làm nũng, hai mắt  mở to nhưng nước mắt đang chảy dài theo má, phía dưới có hàng chữ nhỏ:  “Hôm qua con đã đi học rồi mà”.


Giang sơn của chị Chi chỉ có vậy và chị mở “tiệm”. Khách đến với chị  Chi không phải coi bảng hiệu mà vào, cũng không phải nghe quảng cáo  trên đài địa phương hay đọc giới thiệu trên báo chợ báo bán gì cả, mà  hoàn toàn do thân hữu truyền miệng cho nhau để đến, nhiều lần thành  quen, từ quen hóa thân và quyến luyến trở lại. Chị Chi có bán cà phê  nhưng tuyệt chiêu của chị là trà; loại trà mạn sen, nước xanh, vị chát  nhưng có hậu ngọt và mùi thơm nức mũi. Trà được pha chế công phu trong  những chiếc ấm gan gà nhỏ nhắn, xinh xinh. Ấm màu vàng đất, thân tròn  đều, láng mịn, vòi và quai mảnh mai, cân đối.


Mỗi bộ ấm có kèm theo những chiếc tách cùng màu, to bằng ngón tay  cái của một người mập, vừa đủ cho vài hớp nước nhỏ. Ấm có ba loại, được  gọi tên ra vẻ “trà đạo” lắm: Độc ẩm, song ẩm và quần ẩm nhưng hồi đó  chúng tôi thường “diễn nôm” theo kiểu “tiếng Việt trong sáng” thành ấm  chiếc, ấm đôi và ấm bư. Trà được uống kèm với bánh đậu xanh – loại bánh  đặc biệt của chị Chi – nhỏ, màu vàng óng và mùi thơm vô cùng. Nhắp một  ngụm trà, khẽ một tí bánh, cà kê đủ chuyện trên trời dưới đất trông cũng  có vẻ phong lưu nhàn tản và thanh cao thoát tục lắm.


Đến với chị Chi có cái thú vị là được hưởng một không khí thân mật,  thoải mái như đang ngồi trong nhà của mình; điều thích nữa là không bao  giờ phải bận tâm đến chuyện tiền bạc gì cả; muốn đến lúc nào cứ việc  đến, không có tiền thì chỉ cần ngồi cười cười, chị Chi sẽ nói giùm cho  bạn điều bạn khó nói: “Cuối tháng chưa lãnh măng-đa phải không? Uống gì  nói chị lấy”. Chưa hết đâu, khi đã thân, đã thành “bạn của chị Chi”, hai  lần mỗi năm vào khoảng trước Giáng Sinh và hăm ba ông táo về trời bạn  sẽ được chị Chi kêu “đến chị chơi”. Đến chị chơi có nghĩa là đến uống  trà mà không phải trả tiền và nếu gặp lúc chị Chi vui và khoẻ, “chơi”  còn có nghĩa là có bánh bèo tôm chấy hay bánh hỏi thịt nướng kèm thêm  nữa.


Khách của chị Chi không đông, giá nước ở chị Chi không đắt vì vậy  chắc chắn chị Chi không sống bằng “cửa tiệm”. Chị bán cho vui, bán mà  như kêu anh em góp chút tiền cho chị để chị nấu giùm chút nước uống cho  vui. Mà quả tình ở chỗ chị Chi vui thật, vui vì những đậm đà tình nghĩa.  Hồi đó chị Chi đã khá lớn tuổi, bây giờ chị đã lìa xa chúng ta (mà nếu  còn cũng không còn đủ sức để nấu nước giùm cho ai được nữa). Quán chị  Chi đã biến tướng ít nhiều nhưng dù sao cũng xin cảm ơn chị và xin đại  diện cho những anh chị em đã từng ngồi quán chị Chi bày tỏ lòng tiếc nhớ  đến chị và đến những ngày khó quên cũ. Tôi nghĩ anh chị em cũng không  hẹp lòng gì mà không cho tôi nói lời đại diện này. Cuộc đời chúng ta đẹp  vì những niềm vui nho nhỏ không tên; Sài Gòn của chúng ta đáng nhớ vì  những dễ thương nho nhỏ không tên. Chị Chi, chị đã cho chúng tôi những  niềm vui ấy; chị đã góp cho Sài Gòn một phần của cái dễ thương ấy. Cảm  ơn chị và cà phê sánh đặc rất ngon của chị trong mùa hè đỏ lửa và lệnh  tổng động viên.


Những năm cuối thập niên 60, Sài Gòn có mở thêm nhiều quán cà phê  mới, những quán sau này thường được trang hoàng công phu hơn, có hệ  thống âm thanh tối tân hơn và nhất là quán nào cũng chọn một cái tên rất  đẹp, phần lớn là dựa theo tên những bản nhạc nổi tiếng: Cà phê Hạ  Trắng, Lệ Đá, Diễm Xưa, Hương Xưa, Hoàng Thị, Biển Nhớ, Hoài Cảm, Da  Vàng… Tuy nhiên, ở một con đường nhỏ – hình như là Đào Duy Từ – gần sân  vận động Cộng Hòa có một quán cà phê không theo khuôn mẫu này. Nó mang  một cái tên rất lạ: Quán Đa La. Đa La là Đà Lạt, quán của chị em cô sinh  viên Chính Trị Kinh Doanh, có lẽ vừa từ giã thác Cam Ly, hồ Than Thở để  về Sài Gòn học năm cuối tại nhà sách Xuân Thu hay sao đó, mở ra.


Trường kinh doanh quả là khéo đào tạo ra những môn sinh giỏi kinh  doanh: Tin mấy cô sinh viên mở quán thật tình là không được chính thức  loan báo ở đâu cả; tuy nhiên, cứ úp úp mở mở như vậy mà tốt, nó được  phóng lớn, lan xa, tạo ấn tượng mạnh và quán được chờ đón với những trân  trọng đặc biệt, những náo nức đặc biệt. Những cô chủ chắc có máu văn  nghệ, đã cố gắng mang cái hơi hướm của núi rừng Đà Lạt về Sài Gòn: Những  giò lan, những giỏ gùi sơn nữ, những cung tên chiến sĩ đã tạo cho quán  một dáng vẻ ngồ ngộ, dễ thương; rồi những đôn ghế, những thớt bàn được  cưa từ những cây cổ thụ u nần, mang vẻ rừng núi, cổ sơ đã giúp cho Đa La  mang sắc thái rất… Đa La.


Ngày khai trương, Đa La đã mời được Linh mục Viện trưởng Viện Đại  học Đà Lạt đến dự và đã chuẩn bị một chương trình văn nghệ hết sức rôm  rả với những bản nhạc “nhức nhối” của Lê Uyên Phương, Nguyễn Trung Cang,  Lê Hựu Hà… Chừng đó là đủ chết người ta rồi, dân Đại Học Xá kéo qua,  dưới Sư Phạm, Khoa Học lên; Y Khoa; Phú Thọ xuống; cả Petrus Ký, Chu Văn  An nữa là đủ bộ, quanh quanh khu Ngã Sáu chấm Đa La và dồn tới. Những  ngày đó Đa La đông vui lắm, nó trở thành một chốn tụ tập hết sức văn  nghệ; nó đã chứng kiến sự nở hoa của nhiều mối tình và cũng chia xẻ sự  héo tàn của nhiều mối tình khác, nó có thể tiếp tục buồn vui với những  người bạn trẻ như thế nếu như đất nước không có những đột biến to tát  làm thay đổi rất nhiều nhịp sống chung và tác động sâu xa đến suy nghĩ  và hành động của từng con người.


Đa La vắng dần những người khách cũ, lưa thưa có thêm những người  mới với dáng vẻ ủ dột trầm ngâm hơn. Đa La lần lượt nhận được tin tức về  nhiều người bạn cũ không bao giờ còn trở về; Đa La tiếp tục có thêm  nhiều buổi cà phê cuối cùng để tiễn những người đến lượt ra đi. Đa La  còn đến lúc nào? Đóng cửa bao giờ tôi không biết, có điều là đã có thời  Đa La giống như một tri kỷ của nhiều người, nó cũng buồn, cũng vui, cũng  hy vọng, cũng rã rời, cũng phấn chấn, cũng mệt mỏi, cũng khóc, cũng  cười, cũng muốn ngoan ngoãn xây dựng, cũng thích tung trời phá phách,  cũng tỉnh, cũng điên, nói chung là nó chung chịu với bạn bè những tháng  ngày nhiều chuyện, dễ thương lắm và đáng nhớ lắm, một chút Sài Gòn.


Cà phê Hân ở Đinh Tiên Hoàng Đa Kao là quán thuộc loại sang trọng.  Khách phần lớn ở lớp trung niên và đa số thuộc thành phần trung lưu, trí  thức. Bàn ghế ở đây đều cao, tạo cho khách một tư thế ngồi ngay ngắn,  nghiêm chỉnh và bàn nào cũng có đặt sẵn những tạp chí Pháp ngữ số phát  hành mới nhất. Câu chuyện ở Hân chắc là quan trọng lắm, lớn lắm; nhìn  cái cách người ta ăn mặc; trông cái vẻ người ta thể hiện là biết ngay  chứ gì; có lẽ cả thời sự chính trị, kinh tế tài chánh, văn chương, triết  học đều có cả ở đây. Một chỗ như vậy tốt lắm, đáng trân trọng lắm chứ;  tuy nhiên, dường như có một chút gì rất xa, rất lạ với một dân ngoại đạo  cà phê.


Hân vốn tự nó là một nơi chốn hết sức đáng yêu và chắc chắn là một  nơi chốn rất đáng nhớ của nhiều người, dù ngồi quầy là một ông già đeo  kính như bước ra từ một câu chuyện của văn hào Nga Chekov. Về sau, ở đối  diện với Hân người ta mở thêm quán cà phê Duyên Anh của hai chị em cô  Hà, cô Thanh; cô em xinh hơn cô chị và được nhiều chàng trồng cây si  (không biết nơi này có liên quan gì với nhà văn Duyên Anh hay chỉ là tên  đặt bởi một người chủ ái mộ nhà văn này). Quán này cũng là nơi đóng đô  của một người bạn tôi, một kẻ si tình thoát ra từ Tự Lực Văn Đoàn duy  nhất còn lại của thế kỷ 20 với tình yêu đơn phương dành cho cô em.


Hai tiệm cà phê, một sang trọng chững chạc, một trẻ trung sinh động,  cả hai đã trở thành một điểm hẹn, một đích tới mà khi nhắc đến chắc  nhiều anh chị em ở trường Văn Khoa, trường Dược, trường Nông Lâm Súc  (Trung Tâm Quốc gia Nông Nghiệp rồi Học viện Quốc gia Nông nghiệp saa  này) ngay góc Hồng Thập Tự – Cường Để còn nhớ, cũng như nhớ món bánh  cuốn ở đình Tây Hồ bên trong chợ Đa Kao thờ cụ Phan, nhớ quán cơm lúc  lắc trong một con hẻm nhỏ đường Nguyễn Bỉnh Khiêm mà nữ sinh viên vừa đi  vừa run khi được mấy chàng mời cơm.

SÀI GÒN MỘT THUỞ - UỐNG MÔI EM NGỌT

Quán  cơm ghi sổ bên hông trường và trong con hẻm trại gia binh gần nhà thờ  Mạc-Ti-Nho (bà chủ người Huế rất nhân hậu và hiểu cho sinh viên xa nhà.  Bạn có thể ghi sổ hai, ba tháng ở đây mà không sợ bị nắm áo. Trong số  ghi sổ kinh niên có tôi và Lê Quang. Có lúc đói quá hai thằng bỏ ngang  tiết học để đi ăn cơm lúc… 10 giờ sáng). Rồi cả quán cơm sinh viên trong  sân Hoa Lư khi đã “viêm màng túi” (từ thường dùng bây giờ). Có tiền kha  khá thì ăn cơm thố ở đường Phan Đình Phùng gần Bàn Cờ, rất ngon và lạ.


Bạn nào muốn gặp các nhà văn nhà thơ, muốn nhìn họ ngậm ống vố, đeo  kiếng cận nói chuyện văn chương thì mời đến quán Cái Chùa, anh em nào  muốn có không khí trẻ trung đầm ấm mời đến Hầm Gió; anh em nào muốn có  chỗ riêng tư tâm sự thì cứ theo đường Nguyễn Văn Học chạy tuốt lên Gò  Vấp, vào quán Hương Xưa, ở đó có vườn cây đẹp, các cô chủ đẹp và cái  cách người ta đối đãi với nhau cũng rất đẹp.


Cũng đừng quên nhắc đến quán Chiêu, hẻm Cao Thắng, rồi còn cà phê  hàng me Nguyễn Du, bên hông Tổng cục Thực phẩm (một cơ quan tự trị – như  Tổng cục gia cư – nơi tôi vào làm việc với lương tháng hơn 40,000 đồng  trước khi chuyển qua Tổng cục Thủy nông ở chân cầu Thị Nghè), cũng  Beatles với Don’t let me down, cũng Elvis Presley như ai; và cả pha chút  Adamo quyến rũ. Vợ tôi có cô bạn Nina với quán Nina gần ngã ba, giá cao  gấp rưỡi những quán bình dân gần hãng Shell nhưng so với Pole Nord hay  La Pagode thì chỉ bằng 1/4 là cùng. Dần dần cà phê Nguyễn Du kéo tận đến  bên hông trường đạo gần Nhà thờ Đức Bà, bản doanh của các luật sư; và  kéo đến sát hông Thư viện Quốc gia.


Chán cà phê thì đi ăn nghêu sò, bò bía, ăn kem trên đường Nguyễn Tri  Phương, góc Minh Mạng hoặc bên hông chợ Tân Định. Phá lấu đã có góc  Pasteur-Lê Lợi, nhưng chỉ dành cho các bạn có tiền. Rủng rỉnh tí xu dạy  kèm cuối tháng có Mai Hương hay Chiêu ở Cao Thắng. Quán Mù U, hẻm Võ  Tánh, chỗ thương binh chiếm đất ở gần Ngã tư Bảy Hiền dành cho những bạn  muốn mờ mờ ảo ảo. Muốn thưởng thức túp lều tranh mời đến cà phê dựa  tường Nguyễn Trung Ngạn gần dòng Kín, đường Cường Để. Rồi quán cà phê Lú  ở chợ Thị Nghè của một tay họa sĩ tên Vị Ý. Cao cấp hơn có La Pagode,  Brodard.


*****

Thích xem phim Pháp xưa, phim Mỹ xưa và ngồi… cả ngày xin mời vào  rạp Vĩnh Lợi trên đường Lê Lợi để chung vai với đám đồng tính. Vào  Casino Sài Gòn có thể vào luôn hẻm bên cạnh ăn cơm trưa rất ngon tại một  quầy tôi đã quên tên. Nhưng rạp Rex vẫn là nơi chọn lựa nhiều nhất của  SV, cả nghèo lẫn giàu. Người chịu tiền vé xem phim, người chịu tiền cà  phê, cuộc sống SV cứ chia sẻ như thế mà đi tới vô định. Nghèo nhưng vui  và mơ mộng tới trời. Tống Biệt hành, Đôi mắt người Sơn Tây sống chung  với Cô hái mơ. Đại bác ru đêm sánh vai với Thu vàng. Ảo vọng và thực tế  lẫn vào nhau. Thi thoảng lại pha thêm chút Tội ác Hình phạt, Zara đã nói  như thế, Che Guervara, Garcia Lorca… nhưng định hướng vẫn mịt mờ, vô  định, không thấy đâu là đường. Cứ ngỡ mở mắt dậy sẽ thành anh hùng nhưng  lại không có ngày mai.


Trong tâm trạng đó SV nào chả có một lần ghé Ngã ba Chú ía hay Ngã  năm Chuồng chó để biết mùi đàn bà? Và rồi kết thúc tại Trung tâm Da liễu  Hồ Xuân Hương nếu thiếu may mắn. Nhưng không sao, sinh viên mà! “Cõi  trên” một chút, tâm thần một chút, lập dị một chút, đói (giả hay thật)  một chút, “thầy tu” một chút, du đãng một chút và cả ở bẩn một chút, thì  mới là sinh viên. Tất cả những gì tôi nhắc tới là một chút ngày cũ, một  chút cảnh xưa, một phần hơi thở và nhịp sống của Sài Gòn trong trí nhớ.  Xin tặng anh, tặng chị, tặng em, đặc biệt là tặng tất cả những ai tha  hương có lúc bỗng bàng hoàng nhận thấy, dường như một nửa trái tim mình  còn đang bay lơ lửng ở cà phê Hồng, Duyên Anh, hay đâu đó ở quê nhà…


Sài Gòn, Tháng Tám 2021

Lương Thái Sỹ & An Dân

(Kỷ niệm những năm ở cư xá HỌC VIỆN QUỐC GIA NÔNG NGHIỆP SÀI GÒN trước 1974)


bottom of page