top of page
Banner edge

VĂN THƠ NHẠC

VĂN

THÁNG 3 NHỚ LẠI
VĂN 1.png
VĂN 2.png

NGUYỄN DIỆU AN TRINH

Ký Ức 30/4


Năm 1975, tôi đang học dở  dang niên học lớp 10, chưa kịp đến Hè. Mới giữa Tháng Ba, lễ Hai Bà  Trưng và ngày truyền thống của trường với cái tên mới: Nữ Trung Học Hồng  Đức Đà Nẵng, được tổ chức ba ngày. Có hội chợ, cắm trại, có đêm văn  nghệ lửa trại thật nhiều kỷ niệm. Niềm vui chưa tròn, sân trường chưa  kịp dọn dẹp dấu vết mấy ngày hội hè đã tràn ngập những đoàn người từ  Quảng Trị và Huế lê thê lếch thếch bồng bế nhau chạy tránh bom đạn.  Trường đóng cửa để dành phòng học làm nơi tạm cư cho đồng bào.


Tôi nghe ba má bàn tán tìm  cách di tản vào Sài Gòn vì quân đội mình từ Kontum, Ban Mê Thuột đang  như rắn mất đầu chạy về Nha Trang. Tình hình an ninh đất nước thật hỗn  loạn. Tôi vội vàng xuống trường để rút hồ sơ, chẳng còn một bóng dáng  thầy cô nào ở đây. Phòng học vụ đã bị dân chúng phá cửa vào, giấy tờ  rách nát ngổn ngang, không cách gì tìm kiếm được. Ngoài sân trường,  những tờ bích báo mới đem dự thi hôm Lễ Truyền Thống nay đã bị đem ra  làm vách ngăn cho những hố vệ sinh. Hình ảnh ngôi trường và những dãy  phòng học thân yêu, khoảng sân rợp lá bạc hà thấp thoáng những tà áo dài  trắng đã không còn nữa, trái tim tôi như tan nát.


Ngày 26, tin tức trên đài  phát thanh loan báo quân đội Bắc Việt đã chiếm thành phố Huế. Ba tôi  thất vọng, bỏ ý định di tản vì theo ông, đã mất Ban Mê Thuột và thành  phố Huế thì đi đâu cũng vậy thôi. Cả nhà lo âu, mọi người nhìn nhau cùng  hoang mang cho một viễn ảnh không mấy khả quan.


Tôi đạp xe vào nhà nhỏ bạn  cùng lớp là Kim Liên. Tôi gọi Liên ơi, Liên hỡi, không có ai trả lời.  Gia đình nó đã dọn đi mất tiêu, nhà trống hoang. Dòm vào cửa sổ phòng  khách nhà bạn đang còn mở, tấm hình của ba má Liên được lồng kiếng  thường treo trên tường không còn nữa. Tôi thẫn thờ nhìn lên cây mận  trước sân nhà, ngay trước cửa phòng của nó, những chùm trái non mơn mởn  vẫn đong đưa trên cành. Nước mắt tôi ứa ra.

THÁNG 3 NHỚ LẠI

Tôi  đi ra đường, từ Trần Cao Vân xuống ngã tư Quân Cụ, rẽ phải qua đường  Khải Định. Phố phường đông đúc nhưng điêu tàn, xơ xác, như không còn sức  sống. Dân chúng từ các nơi đang chạy về lũ lượt, những ánh mắt hớt hải,  những khuôn mặt mang nét hoảng loạn, dọc lề đường hàng đống những bộ  quân phục, những cái bi đông của lính, nón sắt… vương vãi. Vài đám tranh  giành hôi của, đang đánh nhau ở ngã tư chợ Cồn. Kho gạo đường Duy Tân  bị dân chúng phá cửa vào, người ta chen nhau giành giật, không kể già  trẻ lớn bé. Có người vừa vác bao gạo ra tới cửa đã bị kẻ mạnh hơn cướp  chạy.


Xuống đến bờ sông Hàn thì  tình hình càng thê thảm. Người ngồi, kẻ nằm dọc theo bờ sông, quang cảnh  hỗn loạn. Người ta chen nhau tìm đường xuống ghe để ra biển vì nghe đâu  đường bộ đã bị phong tỏa ở Quy Nhơn. Ai cũng hy vọng xuống tàu ra biển  vào được Sài Gòn thì mới yên. Sài Gòn… Ôi! Sài Gòn, niềm hy vọng của  người dân cả nước đang trong cảnh dầu sôi lửa bỏng.


Tôi thất thểu trở về, dọc  đường lại chứng kiến bao cảnh người di tản nằm la liệt, những cụ già lụm  cụm, những em bé ngơ ngác. Người ta đùm túm nhau không biết sẽ đi về  đâu. Có nhiều gia đình tài sản mang theo vỏn vẹn cái tượng Đức Mẹ, hoặc  Phật Bà Quan Âm. Người ta ôm khư khư như đang bảo vệ mạng sống của mình,  dường như tín ngưỡng là nơi bám víu cuối cùng của con người lúc tuyệt  vọng. Tôi như kẻ không hồn, ngơ ngác giữa cơn hấp hối của thị xã.


Trong những giờ phút cuối  cùng này, ba má tôi lúc nào cũng khư khư cái radio, lắng nghe tin tức từ  đài BBC, VOA với chút hy vọng mong manh vào những đổi thay ở giờ cuối.  Giấy tờ quan trọng được ba tôi sắp đặt lại một nơi an toàn, má tôi thì  thắp nhang khấn vái tứ phía.

Buổi tối, thỉnh thoảng có  tiếng đạn pháo kích từ xa vọng lại, tuyệt đối không thấy ánh hỏa châu.  Thị xã Đà Nẵng dường như bị bỏ ngỏ. Đêm đêm, đài BBC đưa tin có rất  nhiều người xuống tàu vào Nam tìm đường sống. Nhiều người đã bỏ mình  giữa biển vì tàu đắm, nhiều người di tản bằng đường bộ thì bị trúng mìn,  bị pháo kích, chết nhiều lắm.


Trưa ngày 29, xôn xao tin  đồn cộng sản Bắc Việt đã vào đến Nam Ô. Khoảng hai giờ chiều, tôi ra  trước sân nhà nhìn ra đường, lần đầu tiên tôi tận mắt nhìn thấy những  người lính của phía bên kia. Trên những chiếc xe mang biển số rất lạ là  những khuôn mặt còn non choẹt. Nón cối, dép cao su đen, quân phục thì  rộng thùng thình, nước da người nào người nấy tai tái, hình ảnh của họ  gieo vào tâm trí tôi nỗi chán chường, thất vọng.


Tôi lặng người nhìn những  đoàn xe đi qua, và… không biết chuẩn bị từ bao giờ, cũng có nhiều người  đứng hai bên lề đường, những cánh tay đeo băng đỏ đưa lên vẫy vẫy, hò  reo. Buổi chiều hôm đó, một ngày cuối Tháng Ba trời Đà Nẵng bỗng dưng đổ  mưa. Trong cơn giãy chết của thị xã, cơn mưa không lớn, những hạt mưa  chưa đủ làm ướt mặt đất chỉ bốc lên cái mùi hơi đất nồng nồng. Tôi nghe  cay ở mắt và lòng tôi cũng như đang giãy chết.

THÁNG 3 NHỚ LẠI

Một  tháng sau, nghe tin Sài Gòn, vùng đất cuối cùng cũng mất. Lính tráng,  dân chúng tìm mọi cách thoát thân, một số tướng lãnh đã tìm đến cái chết  để bảo toàn khí tiết. Thế là bao nhiêu hy vọng, mong đợi cuối cùng cũng  đã tan vỡ. Và… bao nhiêu mộng ước thời thanh xuân của lứa chúng tôi  cũng đã tàn theo vận nước.


Mùa Hè đến sớm với những  buổi lao động dọn vệ sinh trường lớp rồi cũng qua mau. Ngôi trường Nữ  Trung Học thân yêu trở thành nơi ở của cán bộ trước khi trường được đổi  thành trường Cao Đẳng Sư Phạm. Thời gian sau, nhiều lần đi ngang trường  xưa, nhìn những hành lang trên tầng lầu phơi đầy áo quần tôi không khỏi  ngậm ngùi, ngơ ngác, tất cả như chỉ là một giấc mơ.


Một giấc mơ không đẹp,  không ươm đầy mộng mị, không óng ả hạnh phúc nhưng lại là một giấc mơ  khó quên. Tôi không thể nào quên. Hai năm cuối cùng bậc trung học, tôi  được xếp vào học ở trường trung học Phan Châu Trinh, ngôi trường lớn  nhất thành phố từ trước đến nay. Hai năm vật lộn với sắn khoai, bo bo và  “chủ nghĩa xã hội”, tôi ra trường và bắt đầu vào đời với nhiều đắng cay  của một người có lý lịch phải đứng bên lề của hàng ngũ trí thức. Kể từ  ngày trường học đóng cửa và nhà tù mọc lên như nấm khắp nơi từ Nam ra  Bắc.


Tôi sống lây lất, dật dờ  như thế đến mười chín năm. Mười chín năm quá đủ để tôi thấm hiểu thế nào  là cuộc sống của kẻ lâm vào cảnh nước mất, nhà tan. Cứ mỗi năm khi  Tháng Ba về, đọc báo, nghe tin tức nói về những tiến bộ mới mẻ ở quê  nhà, những đổi thay của Đà Nẵng, tôi không khỏi mường tượng đến hình ảnh  một chiều Tháng Ba năm xưa, khi một con bé mới mười bảy tuổi, là tôi,  đứng ngơ ngác nhìn cảnh hấp hối của Đà Nẵng, nước mắt nhòe khuôn mặt.  Cảm giác đớn đau đó cứ mãi ám ảnh tôi. Tôi cứ luôn nghĩ về những oan  khiên của đồng bào đã bỏ mạng oan ức vì bom đạn vốn vô tình. Nghĩ đến  những nghiệt ngã của dòng đời kể từ dạo đó khiến biết bao gia đình rơi  vào cảnh dở khóc dở cười. Con lạc cha, vợ mất chồng, kẻ vùi thân nơi  biển cả, người lưu lạc xứ xa, kẻ trở về tàn phế bịnh hoạn.


Tháng Ba của tang tóc và  chia lìa, vậy mà Tháng Ba năm nào ở Đà Nẵng, người quê tôi cũng hân hoan  chào đón, đốt pháo, treo cờ. Có phải người ta đã thật sự quên, hay tôi  đã già cỗi khi nhắc nhớ hoài đến chuyện biển dâu?


Nguyễn Diệu Anh Trinh

https://saigonnhonews.com/nhin-lai-lich-su/ky-uc-30-4/thang-ba-nho-lai/

bottom of page